Cả hai người chỉ mặc một chiếc quần đùi ngồi trên bè gỗ, mở miệng thở hổn hển.
Trịnh Trì Viễn vừa bị đám gỗ dày đặc làm cho hoảng sợ, thì hai người này cũng bị làm cho hoảng sợ không kém.
Gái gọi là thả bè đó là lấy gỗ buộc lại, rồi xuôi theo dòng chảy để đến nơi cần đến.
Công việc này nghe có vẻ đơn giản nhưng thực tế lại vô cùng nguy hiểm và phức tạp, gần như hơn một nửa số công nhân thả bè không thể chết già.
Không phải họ làm điều ác hay gì cả, mà thả bè là một công việc vô cùng nguy hiểm, một khi một lượng gỗ khổng lồ di chuyển theo dòng nước thì quán tính sẽ rất mạnh, hơn nữa không có cách nào dừng lại, công nhân thả bè chỉ có thể điều chỉnh hướng để tránh nguy hiểm.
Một khi gặp phải con sông đang chảy xiết, nếu công nhân thả bè không điều chỉnh hướng kịp lúc mà để va phải vật gì đó, thì rất có thể sẽ chìm xuống đáy sông ngay.
Thế nên, thông thường trước khi thả bè sẽ có thuyền chạy trước để nhäc nhở các thuyền neo dọc đường nhường đường.
Vừa rồi thủy quân có thể thoát được một kiếp cũng là nhờ những chiếc thuyền này đã cảnh báo sớm.
Lúc này bè gỗ đã ra khơi, nhiệm vụ của hai người đã hoàn thành nên có thể thở phào nhẹ nhõm.
Một công nhân thả bè khó có thể sống đến già, ấy thế mà thật ra ông lão này chỉ mới ngoài năm mươi nhưng đã là nhân huyền thoại trong giới công nhân thả bè.
Mọi người đã quên tên ông ấy là gì, bởi vì đã lớn tuổi và có kỹ thuật lèo lái tốt nên những công nhân thả bè khác đều kính cẩn gọi ông ấy là ông Quy.
Còn thiếu niên trước mặt này là một đứa trẻ mồ côi được ông ấy nhận nuôi, từ nhỏ đã ngâm nước lớn lên, không chỉ bơi giỏi mà còn biết nín thở lâu dưới nước, xuống nước lấy tay không cũng bắt được cá dễ như chơi.
Vì là trẻ mồ côi nên cũng không có ai biết cậu bé tên gì, nên mọi người đều gọi là Thủy Oa.
Cách đây không lâu khi Giang Nam loạn lạc, khắp nơi trên trường giang đều là cướp biển nên không tìm đến ông Quy thả bè, thế là sinh hoạt cơ bản của hai người đều nhờ vào Thủy. Oa xuống nước bắt cá.
Hai con người không tên cứ nương tựa nhau mà sống qua thời loạn lạc.
Sau đó Khánh Hâm Nghiêu tìm kiếm cao thủ thả bè ở Xuyên Thục, ông Quy lập tức được đồng nghiệp tiến cử, hơn nữa còn đề nghị ông ấy làm người tiên phong trong đội ngũ và phụ trách đội bè gỗ đầu tiên.
Dẫu sao là thiếu niên thì năng lượng vẫn tràn đầy, nên Thủy Oa nghỉ ngơi một lúc đã đứng lên tò mò nhìn xung
quanh: "Ông Quy, đây là biển sao?"
“Đúng vậy, đây là biển!" ông Quy khẽ gật đầu, sau đó theo thói quen lại sờ vào eo một chút.
Tiếc là trên eo không có gì.
Thủy Oa nhìn thấy hành động của ông Quy vội chạy sang một bên, lấy ra một chiếc túi làm băng da bò từ giữa hai khúc gỗ.
Tháo dây rồi lấy một nắm đậu khô ra khỏi túi.
Da bò không thấm nước, miệng cũng được buộc chặt nên đậu không bị ướt.
Loại đậu này hầm rồi xào, lại còn vô cùng mặn và cứng, có đôi khi không có thời gian ăn, ông Quy sẽ lấy mấy hạt bỏ vào miệng để làm dịu bớt cơn đói và lên tinh thần.
Nhiều năm như vậy nên đã sớm hình thành thói quen.
“Ông Quy, biển lớn quá!”
Thủy Oa đưa hạt đậu cho ông Quy: “Ông Quy, người ta nói nước biển mặn, muối chúng ta ăn là từ nước biển phơi ra, có thật vậy không ông?
"Cháu thử đi là biết thôi!"Ông Quy cười nói.
Thủy Oa nghe vậy là đã nhảy đến mép bè, dùng tay hứng. nước biển uống thử.
Đây cũng là cách cậu bé uống nước ở sông.
Vừa uống vào cậu bé đã phun ra: “Ôi, mặn quái”
Ông Quy nhìn thấy cảnh này không khỏi bật cười: “Thủy Oa, cháu phải nhớ này, ở trên biển dù có khát đến đâu cũng không thể uống nước biển, nếu không càng uống lại càng khát, cuối cùng đang sống sờ sờ rồi sẽ chết khát!”
"Tại sao vậy?" Thủy Oa nghiêng đầu hỏi: “Nước biển cũng là nước, sao càng uống lại càng khát?”
Trịnh Trì Viễn vừa bị đám gỗ dày đặc làm cho hoảng sợ, thì hai người này cũng bị làm cho hoảng sợ không kém.
Gái gọi là thả bè đó là lấy gỗ buộc lại, rồi xuôi theo dòng chảy để đến nơi cần đến.
Công việc này nghe có vẻ đơn giản nhưng thực tế lại vô cùng nguy hiểm và phức tạp, gần như hơn một nửa số công nhân thả bè không thể chết già.
Không phải họ làm điều ác hay gì cả, mà thả bè là một công việc vô cùng nguy hiểm, một khi một lượng gỗ khổng lồ di chuyển theo dòng nước thì quán tính sẽ rất mạnh, hơn nữa không có cách nào dừng lại, công nhân thả bè chỉ có thể điều chỉnh hướng để tránh nguy hiểm.
Một khi gặp phải con sông đang chảy xiết, nếu công nhân thả bè không điều chỉnh hướng kịp lúc mà để va phải vật gì đó, thì rất có thể sẽ chìm xuống đáy sông ngay.
Thế nên, thông thường trước khi thả bè sẽ có thuyền chạy trước để nhäc nhở các thuyền neo dọc đường nhường đường.
Vừa rồi thủy quân có thể thoát được một kiếp cũng là nhờ những chiếc thuyền này đã cảnh báo sớm.
Lúc này bè gỗ đã ra khơi, nhiệm vụ của hai người đã hoàn thành nên có thể thở phào nhẹ nhõm.
Một công nhân thả bè khó có thể sống đến già, ấy thế mà thật ra ông lão này chỉ mới ngoài năm mươi nhưng đã là nhân huyền thoại trong giới công nhân thả bè.
Mọi người đã quên tên ông ấy là gì, bởi vì đã lớn tuổi và có kỹ thuật lèo lái tốt nên những công nhân thả bè khác đều kính cẩn gọi ông ấy là ông Quy.
Còn thiếu niên trước mặt này là một đứa trẻ mồ côi được ông ấy nhận nuôi, từ nhỏ đã ngâm nước lớn lên, không chỉ bơi giỏi mà còn biết nín thở lâu dưới nước, xuống nước lấy tay không cũng bắt được cá dễ như chơi.
Vì là trẻ mồ côi nên cũng không có ai biết cậu bé tên gì, nên mọi người đều gọi là Thủy Oa.
Cách đây không lâu khi Giang Nam loạn lạc, khắp nơi trên trường giang đều là cướp biển nên không tìm đến ông Quy thả bè, thế là sinh hoạt cơ bản của hai người đều nhờ vào Thủy. Oa xuống nước bắt cá.
Hai con người không tên cứ nương tựa nhau mà sống qua thời loạn lạc.
Sau đó Khánh Hâm Nghiêu tìm kiếm cao thủ thả bè ở Xuyên Thục, ông Quy lập tức được đồng nghiệp tiến cử, hơn nữa còn đề nghị ông ấy làm người tiên phong trong đội ngũ và phụ trách đội bè gỗ đầu tiên.
Dẫu sao là thiếu niên thì năng lượng vẫn tràn đầy, nên Thủy Oa nghỉ ngơi một lúc đã đứng lên tò mò nhìn xung
quanh: "Ông Quy, đây là biển sao?"
“Đúng vậy, đây là biển!" ông Quy khẽ gật đầu, sau đó theo thói quen lại sờ vào eo một chút.
Tiếc là trên eo không có gì.
Thủy Oa nhìn thấy hành động của ông Quy vội chạy sang một bên, lấy ra một chiếc túi làm băng da bò từ giữa hai khúc gỗ.
Tháo dây rồi lấy một nắm đậu khô ra khỏi túi.
Da bò không thấm nước, miệng cũng được buộc chặt nên đậu không bị ướt.
Loại đậu này hầm rồi xào, lại còn vô cùng mặn và cứng, có đôi khi không có thời gian ăn, ông Quy sẽ lấy mấy hạt bỏ vào miệng để làm dịu bớt cơn đói và lên tinh thần.
Nhiều năm như vậy nên đã sớm hình thành thói quen.
“Ông Quy, biển lớn quá!”
Thủy Oa đưa hạt đậu cho ông Quy: “Ông Quy, người ta nói nước biển mặn, muối chúng ta ăn là từ nước biển phơi ra, có thật vậy không ông?
"Cháu thử đi là biết thôi!"Ông Quy cười nói.
Thủy Oa nghe vậy là đã nhảy đến mép bè, dùng tay hứng. nước biển uống thử.
Đây cũng là cách cậu bé uống nước ở sông.
Vừa uống vào cậu bé đã phun ra: “Ôi, mặn quái”
Ông Quy nhìn thấy cảnh này không khỏi bật cười: “Thủy Oa, cháu phải nhớ này, ở trên biển dù có khát đến đâu cũng không thể uống nước biển, nếu không càng uống lại càng khát, cuối cùng đang sống sờ sờ rồi sẽ chết khát!”
"Tại sao vậy?" Thủy Oa nghiêng đầu hỏi: “Nước biển cũng là nước, sao càng uống lại càng khát?”