Hạ Du tiến tới hành lễ: “Cá sấu và môi trường nuôi dưỡng trong Cung Thái Hòa có thể khiến cung Thái Hòa trở nên hiểm yếu hơn, thần cảm thấy tuy rằng rất nguy hiểm, nhưng dùng để trông chừng Tĩnh Nguyệt công chúa cùng con trai của nàng ta là điều cần thiết”.
Hạ Du nói: “Vi thần cho rằng nên đưa đứa trẻ kia tới viện Thái Học”.
Hoàng đế tỏ ra nghi hoặc: “Ồ? Ngươi lý giải thế nào?”
Hạ Du đáp: “Nếu làm như vậy, thứ nhất, có thể quản thúc thằng bé, khiến thằng bé bị chôn chân ở học đường, không có thời gian tiếp xúc với vật dưới nước, thứ hai, Hoàng thượng lo ngại công chúa và Đại học sĩ âm thầm qua lại, nhưng trước nay không tìm được chứng cứ, đây chẳng phải là một thời cơ hay sao”.
Hoàng đế trước đó chưa hề nghĩ tới điều này.
Hạ Du bồi thêm: “Nếu hai người này thực sự dính líu đến nhau, nương thế đứa trẻ này, họ chắc chắn sẽ âm thầm truyền tin qua lại. Hoàng thượng chỉ cần phái người trông chừng kỹ càng hơn, một khi phát hiện dấu vết là có thể bắt tận tay”.
Hoàng đế trầm ngâm trong thoáng chốc rồi nở nụ cười: “Hạ ái khanh rất hiểu ý trẫm”.
Thế là Hoàng đế cất lời ân chuẩn, kể từ ngày hôm đó, Bắp Chân có thể cùng các hoàng tử và công chúa tới viện Thái Học học hành, nhưng phải nghiêm túc tuân theo chế độ trong viện Thái Học, nếu không sẽ bị xử lý theo quy định.
Sự cố gắng nhiều ngày qua cuối cùng cũng không uổng phí. Bây giờ Hoàng đế không đưa Bắp Chân tới viện Thái Học cũng không được.
Hoặc là Bắp Chân vào viện Thái Học để Tô Vũ khai mở trí tuệ, hoặc là đám hoàng tử công chúa trong hoàng cung này đừng hòng được học hành yên ổn.
Sau khi thái giám truyền lời rời khỏi, Thẩm Nguyệt tươi cười nhìn Bắp Chân, khi không có ai mới ghé vào tai thằng bé nói nhỏ: “Con trai, ngày mai tới viện Thái Học phải ngoan nhé, mấy ông già thái phó khác thì thôi, lời những kẻ lúc nào cũng chi, hồ, giả, dã đó, dù con có nghe cũng chẳng hiểu đâu. Con cứ nhắm vào người thầy trẻ nhất đẹp trai nhất trong học viện, con phải nghe người đó dạy, biết không?”
Bắp Chân gật đầu, cái hiểu cái không, trên gương mặt nhỏ nhắn cũng thoáng nét cười, hồi lâu sau mới nặn ra một câu: “Con biết rồi”.
Thẩm Nguyệt nhướn mày, sờ cằm, chậc một tiếng, chăm chú nhìn Bắp Chân, trầm ngâm nói: “Còn chưa phải cha con, sao mình cứ cảm thấy đã giống giống rồi nhỉ…”
Thẩm Nguyệt cảm thấy, như vậy cũng tốt, tuy không phải con ruột, nhưng có nét giống, sau này cha dượng con riêng chưa biết chừng sẽ chung sống rất hòa hợp.
Ngày hôm sau, Thẩm Nguyệt thu xếp cho Bắp Chân rất chỉnh tề, bảo Tiểu Hà đưa thằng bé tới viện Thái Học.
Cung Thái Hòa không còn Bắp Chân suốt ngày trêu cá sấu cũng coi như bình lặng hơn, đến cả con cá sấu hay nằm im trên mặt nước cũng cảm thấy chán, ai nấy dọn dẹp ngủ sớm đi thôi.
Nhưng Ngũ hoàng tử bị hù dọa đến mức mấy ngày liền không dám ra khỏi tẩm cung của mình chứ đừng nói là đi trên con đường tới viện Thái Học. Hoàng đế tới thăm một lần, thằng bé này khóc như bùn loãng trát tường, bị hoàng đế mắng là nhát gan như chuột, không ra gì.
Tề phi ôm hận trong lòng, thầm nghĩ, nếu không phải vì Cung Thái Hòa giở trò, con trai của nàng ta cũng không sợ đến mức này.
Bây giờ thì hay rồi, con trai của nàng ta không thể tới viện Thái Học, lại để cho thứ tạp chủng kia tới viện Thái Học.
Tề phi muốn thỉnh cầu Hoàng đế nghiêm khắc trừng trị Bắp Chân, nhưng sự việc hôm đó, ai cũng trông thấy rõ rành rành, con cá sấu tự bò ra ngoài, nếu không nhờ Bắp Chân xuất hiện kịp thời và gan dạ kéo nó đi, e là Ngũ hoàng tử đã bị cắn rồi.
Xét từ góc độ nào đó, Bắp Chân còn cứu Ngũ hoàng tử cơ.
Cho dù tức giận, Hoàng đế cũng không thể lôi Bắp Chân ra trừng phạt một cách bừa bãi. Vả lại, chẳng được mấy ngày nữa là sứ thần Bắc Hạ tới kinh thành rồi. Vào thời điểm này, ông ta không muốn xảy ra bất kỳ chuyện gì liên quan tới Tĩnh Nguyệt công chúa.