Trong khi Brady đang dán nhãn GIẢM GIÁ 50% lên những bộ phim cũ của Quentin Tarantino còn Freddi đang giúp bà già Vera Wilkins bên mạn West Side (hóa ra bàn phím của bà ta mới là nơi chứa đầy mẩu vụn bánh), Bill Hodges rẽ khỏi Lowbriar, con phố bốn làn xe tách đôi thành phố và là nguồn gốc cho tên gọi của khu Lowtown, từ đó vào trong bãi đỗ xe bên cạnh nhà hàng Italy của DEMASIO. Ông chẳng cần phải là Sherlock Holmes mới biết rằng Pete đã đến đây trước. Hodges đậu xe cạnh một chiếc sedan Chevrolet màu xám trơn với những lốp xe viền đen như chỉ chực hét lên cảnh sát thành phố đây và bước ra khỏi chiếc Toyota cũ của ông, một chiếc xe cũng chỉ chực hét lên dân về vườn đây. Ông sờ nắp ca pô chiếc Chevrolet. Ấm. Pete cũng không đến sóng hơn ông bao nhiêu.
Ông dừng lại trong giây lát, tận hưởng buổi sáng gần trưa với ánh mặt trời rực rỡ và những vệt bóng sắc nét, ngắm nhìn cây cầu vượt phía dưới một khối phố. Các băng đảng ở đó nhiều đến ngập mông, và mặc dù bây giờ chỗ đó trống trơn (buổi trưa là giờ ăn sáng của những người dân bị ruồng bỏ của khu Lowtown), ông biết nếu đi bộ dưới cây cầu đó, ông sẽ ngửi thấy mùi chua loét của rượu vang và whiskey rẻ tiền. Chân ông sẽ miết lạo xạo trên những mảnh chai vỡ. Ở dưới rãnh nước còn nhiều chai lọ hơn. Loại chai nhỏ màu nâu.
Không còn là vấn đề của ông nữa. Vả lại, bóng tối bên dưới cây cầu vượt đang trống không, còn Pete thì đang đợi ông Hodges bước vào và lấy làm hài lòng khi Elaine ở cửa đón khách mỉm cười và chào ông bằng tên, mặc dù đã mấy tháng rồi ông không lại đây. Có khi cả năm rồi. Tất nhiên Pete đang ở một trong những bàn ngăn riêng, đang giơ tay về phía ông, và có thể là Pete đã làm mới lại trí nhớ của bà ta, giống như cánh luật sư nói.
Ông giơ tay đáp lại, và đến khi ông đến ô bàn ngăn, Pete đã đứng sẵn bên cạnh, hai cánh tay giơ lên để ôm chặt ông. Họ vỗ vỗ lên lưng nhau đúng số lần cần thiết và Pete bảo ông rằng trông ông rất ổn.
“Cậu biết ba Giai đoạn của Đời Người chứ?” Hodges hỏi.
Pete vừa lắc đầu, vừa ngoác miệng cười.
“Thanh niên, trung niên, và trông anh phong độ quá thể.”
Pete cười phá lên và hỏi Hodges có biết cô nàng tóc vàng hoe đã nói gì khi cô ta mở hộp ngũ cốc Cheerios. Hodges nói rằng ông không biết. Pete làm bộ với đôi mắt mở to ngỡ ngàng và nói, “Ôi! Xem những hạt giống bánh rán nhỏ xíu kháu khỉnh chưa này?”
Hodges cũng bật ra tràng cười phá lên theo nghĩa vụ (mặc dù ông không nghĩ câu chuyện này là ví dụ dí dỏm lắm về dân Tóc Vàng hoe), và sau những màn nghi thức lúc này đã xong xuôi, họ ngồi xuống. Một nam bồi bàn bước lại - không có bồi bàn nữ ở DEMASIO’S, chỉ có những người đàn ông đứng tuổi đeo tạp dề sạch tinh buộc cao trên bộ ngực gà khẳng khiu của họ - và Pete gọi một bình vại bia. Bud Lite, không phải Ivory Special. Khi bia đến, Pete nâng cốc lên.
“Uống mừng anh nào, Billy, và cuộc sống sau công việc.”
“Cảm ơn.”
Họ chạm cốc và uống. Pete hỏi thăm về Allie còn Hodges hỏi thăm về con trai và con gái của Pete. Vợ của họ, cả hai đều có chữ cũ đi kèm, cũng được nhắc đến (như thể để chứng tỏ cho người kia - với chính mỗi người - rằng mình không hề e sợ nhắc đến họ) và rồi bị trục xuất khỏi cuộc nói chuyện. Họ gọi đồ ăn. Đến khi đồ ăn được mang ra, họ đã xong phần hai đứa cháu ngoại của Hodges và đã phân tích cơ hội của đội Cleveland Indians, vốn thế nào lại là đội nhà nghề gần nhất. Pete ăn món ravioli, còn Hodges là spaghetti với tỏi và dầu, lần nào đến đây ông cũng gọi món này.
Được giữa chừng quá trình nạp năng lượng, Pete lấy một mẩu giấy được gấp lại từ túi áo ngực ra và đặt nó, với vẻ trịnh trọng, cạnh đĩa của mình.
“Cái gì vậy?” Hodges hỏi.
“Bằng chứng rằng kỹ năng thám tử của tôi vẫn sắc bén như mọi khi. Tôi không gặp anh sau cái màn biểu diễn kinh dị ở Raintree Inn - nhân tiện nói luôn là tôi say ngất ngư đến ba ngày mới hết - và tôi nói chuyện với anh, mấy nhỉ, được hai lần? Ba lần? Và rồi, keng, anh mời tôi đi ăn trưa. Tôi có ngạc nhiên không? Không. Tôi có đánh hơi thấy động cơ mờ ám nào không? Có. Vậy nên chúng ta hãy xem tôi có đúng không nào.”
Hodges nhún vai. “Tôi giống như con mèo tò mò. Cậu biết người ta nói gì rồi đấy - sự hài lòng đưa nó quay trở lại.”
Pete Huntley đang cười phớ lớ, và khi Hodges với tay lấy mẩu giấy gấp, Pete giơ tay che nó lại. “Không-không-không-không. Anh phải nói ra mới được. Đừng có ngại ngần, Kermit.”
Hodges thở dài và bấm đếm bốn nội dung trên những ngón tay. Khi ông đã xong, Pete đẩy mẩu giấy qua bàn. Hodges mở nó ra và đọc:
1. Davis
2. Yêu ma xanh trong công viên
3. Cướp hiệu cầm đồ
4. Tên Sát nhân Mercedes
Hodges giả vờ ra vẻ ngượng nghịu. “Cậu bắt được thóp tôi rồi, cảnh sát trưởng. Đừng hé răng điều gì nếu cậu không muốn.”
Pete tỏ vẻ nghiêm nghị. “Chúa ơi, nếu anh không quan tâm đến những vụ án vẫn còn dang dở khi anh rửa tay gác kiếm thì tôi mới là người thất vọng. Bấy lâu nay tôi vẫn… hơi lo cho anh.”
“Tôi không muốn chõ mũi vào hay gì cả.” Hodges cũng phải lấy làm choáng vì câu nói dối to đùng đó buột ra trơn tru ngọt như mía lùi.
“Mũi anh đang mọc dài ra kìa, Pinocchio.”
“Không, nghiêm túc đấy. Tất cả những gì tôi muốn là cập nhật tình hình thôi.”
“Rất hân hạnh được đáp ứng. Bắt đầu với Donald Davis nhé. Anh biết kịch bản rồi đấy. Hắn làm rối tung bất kỳ công ty nào mà hắn nhúng tay vào, gần đây nhất là Davis Classic Cars. Thằng cha này ngập sâu trong nợ nần đến nỗi lẽ ra hắn phải đổi tên là Thuyền trưởng Nemo mới đúng. Ngoài ra còn hai ba em mèo mỡ nữa.”
“Lúc tôi về nghỉ thì là ba,” Hodges nói, và quay lại giải quyết món pasta của mình. Ông ở đây không phải vì Donald Davis, hay tên yêu râu xanh trong công viên, hay kẻ đã hoành hành tại các tiệm cầm đồ và cửa hàng bán đồ uống suốt bốn năm qua; chúng chỉ là vật ngụy trang. Nhưng ông cũng không khỏi thấy tò mò.
“Cô vợ mệt mỏi vì vụ nợ nần và mấy em bồ. Đang chuẩn bị giấy tờ ly dị thì cô ta biến mất. Câu chuyện xưa như trái đất. Hắn trình báo là vợ mất tích và tuyên bố phá sản ngay ngày hôm đó. Trả lời phỏng vấn trên ti vi rồi vãi ra cả một xô nước mắt cá sấu. Chúng tôi biết hắn giết cô ta, nhưng không tìm thấy thi thể…” ta nhún vai. “Anh đã tham dự những cuộc gặp với Diana Đầu Đất rồi đấy.” Anh ta đang nói tới bà công tố viên quận của thành phố.
“Vẫn không thuyết phục được bà ta truy tố hắn à?”
“Không có xác, bác truy tố. Cảnh sát ở Modesto biết Scott Peterson là thủ phạm mười mươi mà vẫn không thể truy tố hắn, mãi đến khi họ tìm được thi thể của vợ con hắn. Anh biết mà.”
Hodges biết. Ông và Pete đã nói về vụ Scott và Laci Peterson rất nhiều trong quá trình họ điều tra vụ mất tích của Sheila Davis.
“Nhưng biết sao không? Tìm thấy máu ở căn nhà nghỉ mùa hè của họ bên hồ.” Pete ngừng một lát cho thêm phần kịch tính, rồi ném nốt phần tin nóng còn lại. “Chính là cô ta.”
Hodges chồm người về trước, tạm thời quên phắt đống đồ ăn. “Từ khi nào?”
“Tháng trước.”
“Vậy mà cậu chẳng nói gì với tôi?”
“Thì tôi đang nói đây. Vì bây giờ anh mới hỏi. Đang cho tìm kiếm ở đó. Cảnh sát hạt Victor phụ trách.”
“Có ai nhìn thấy hắn trong khu vực ấy trước khi Shella mất tích không?”
“Ồ có chứ. Hai đứa bé. Davis khăng khăng là hắn đang đi lùng tìm nấm. Kiểu Euell Gibbons[18] chết tiệt, ông biết chứ? Một khi người ta tìm được cái xác - hoặc nếu họ tìm được cái xác - ông bạn Dounie Davis có thể dừng việc chờ cho đủ bảy năm qua đi để có thể nộp kiến nghị tòa tuyên bố vợ mình đã chết rồi lĩnh tiền bảo hiểm.” Pete cười ngoác miệng. “Nghĩ mà xem, hắn sẽ tiết kiệm được khối thời gian.”
“Yêu râu xanh trong công viên thì sao?”
“Thực sự chỉ là vấn đề thời gian thôi. Chúng tôi biết hắn là người da trắng, chúng tôi biết hắn thuộc độ tuổi thanh thiếu niên hoặc ngoài hai mươi, và chúng tôi còn biết hắn luôn thèm khát loại máy bay bà già hấp dẫn ấy.”
“Các cậu cho người đóng giả ra nhử, đúng không? Vì hắn thích thời tiết ấm áp.”
“Chúng tôi đang làm thế, và chúng tôi sẽ tóm hắn.”
“Sẽ rất tuyệt nếu các cậu tóm hắn trước khi hắn làm hại một quý bà ngoài năm mươi nào nữa đang trên đường đi làm về.”
“Chúng tôi đang gắng hết sức.” Pete hơi phật ý, và khi người bồi bàn của họ có vẻ như sắp hỏi mọi việc có ổn không, Pete xua ông ta đi chỗ khác.
“Tôi biết,” Hodges nói. Vỗ về xoa dịu. “Tên cướp hiệu cầm đồ thì sao?”
Pete lại cười ngoác miệng. “Young Aaron Jefferson.”
“Hả?”
“Đó là tên thật của hắn, mặc dù hồi chơi bóng cho đội City High, hắn tự xưng là YA. Anh biết đấy, kiểu như YA Tittle[19] . Mặc dù bạn gái của hắn - cũng là mẹ đứa con ba tuổi của hắn - khai với chúng tôi rằng hắn gọi ông ấy là YA Titties[20] . Khi tôi hỏi cô ta là hắn đùa hay nghiêm túc, cô ta bảo là cô ta hoàn toàn không biết.”
“Đây là một câu chuyện khác mà Hodges biết, cũ rích đến nỗi tưởng như nó bước ra từ Kinh Thánh… và có lẽ còn một phiên bản của nó đâu đó bên trong. “Để tôi đoán xem nào. Hắn thực hiện được hơn chục vụ…”
“Đến giờ là mười bốn rồi. Vung vẩy khẩu cưa nòng ấy như Omar trong The Wire.”
“… và luôn trốn thoát cùng khẩu súng ấy vì hắn có vận may của quỷ. Và rồi hắn phản bội bà mẹ trẻ con. Cô ta lên cơn tam bành và tố cáo hắn.”
Pete đan ngón tay thành hình khẩu súng trỏ vào người cộng sự cũ. “Trúng phóc. Và lần tới khi Young Aaron bước vào một hiệu cầm đồ hoặc một cửa hàng đổi tiền với khẩu súng cưa nòng của hắn, chúng tôi sẽ biết trước, và thế là thiên thần gãy cánh nhé.”
“Sao phải chờ?”
“Vẫn là mụ công tố viên quận,” Pete nói. “Anh mang cho Diana Đầu đất một miếng bít tết, và mụ ta bảo, Nấu cho tôi, nếu không đúng là tái vừa, tôi sẽ trả lại.”
“Nhưng các cậu tóm được hắn rồi cơ mà.”
“Tôi cá với anh một bộ lốp viền trắng là YA Titties sẽ nằm nhà tù hạt trước ngày tháng Bảy và đến Giáng sinh là chuyển lên bang. Davis và gã yêu râu xanh thì có thể lâu hơn, nhưng chúng tôi sẽ tóm chúng. Anh muốn ăn tráng miệng không?”
“Không. Có.” Quay sang người bồi bàn, ông nói, “Ông vẫn còn loại bánh rượu rum ấy chứ? Loại sô cô la đen ấy?”
Người bồi bàn tỏ ra tự ái. “Vâng, thưa ông. Trước giờ vẫn thế.”
“Tôi sẽ lấy một miếng đó. Và cà phê nữa. Pete?”
“Tôi sẽ giải quyết nốt chỗ bia còn lại.” Nói xong, anh ta trút hết ra khỏi bình. “Anh chắc về cái bánh chứ, Billy? Trông như anh đã tăng thêm vài cân kể từ lần gần đây nhất tôi gặp anh.”
Đó là sự thật Hodges ăn ngấu nghiến khi về hưu, nhưng chỉ một hai ngày vừa rồi ông mới có cảm giác ngon miệng. “Tôi đang nghĩ đến Weight Watchers[21] .”
Pete gật đầu. “Vậy sao? Tôi thì lại đang nghĩ đến việc đi tu.”
“Quỷ tha ma bắt anh đi. Tên Sát nhân Mercedes thì sao?”
“Chúng tôi vẫn đang bủa vây khu vực quanh nhà bà Trelawney - thực ra ngay lúc này Isabelle đang có mặt ở đó - nhưng tôi sẽ sốc lắm nếu cô ấy hay ai tìm thấy đầu mối đáng kể nào. Những cánh cửa mà Izzy đang gõ đã được gõ lên cả chục lần rồi. Hung thủ ăn trộm chiếc xe sang của Trelawney, lái xe ra từ trong màn sương mù, gây tội ác, rồi lại biến vào trong màn sương, vứt xe lại, và… chẳng có gì hết. Quý ông YA Titties chẳng đáng kể gì, chính gã Mercedes này mới thực sự gọi là may mắn như quỷ. Chỉ cần hắn gây tội ác chậm hơn một tiếng thôi là đã có cảnh sát ở đó rồi. Để kiểm soát đám đông.”
“Tôi biết.”
“Anh có nghĩ là hắn biết trước không, Billy?”
Hodges lật qua lật lại bàn tay để thể hiện rằng điều đó thật khó nói. Có thể, nếu ông và tên Sát nhân Mercedes bắt đầu một cuộc trò chuyện trên cái trang Chiếc Ô Xanh kia, ông sẽ hỏi.
“Tên khốn giết người đó lẽ ra đã có thể mất kiểm soát khi hắn bắt đầu đâm mọi người và tông xe vào chỗ nào đấy, nhưng điều đó không xảy ra. Công nghệ Đức, tốt nhất thế giới, đó là những gì Isabelle nói. Lẽ ra có thể ai đó đã nhảy lên nắp ca pô và che khuất tầm nhìn của hắn, nhưng chẳng ai làm thế cả. Một trong những cây cọc chăng dải băng CẤM VƯỢT QUA lẽ ra đã có thể bật lên dưới gầm xe và mắc cứng vào đó, nhưng cả điều đó cũng đã không xảy ra. Và lẽ ra cũng phải có ai đó nhìn thấy hắn khi hắn đậu xe đằng sau nhà kho đó và xuống xe khi đã tháo mặt nạ, nhưng chẳng có ai hết.”
“Lúc đó là năm giờ hai mươi lăm phút sáng,” Hodges chỉ ra vấn đề, “và kể cả là giữa trưa thì khu vực đó cũng hầu như bị bỏ hoang.”
“Chỉ vì cuộc suy thoái,” Pete Huntley rầu rĩ nói. “Thế đấy, thế đấy. Có lẽ phải đến nửa số người làm việc ở những nhà kho đó trước kia cũng đã ở City Center, đợi cái hội chợ việc làm khốn kiếp ấy bắt đầu. Xơi một chút trớ trêu đi, tốt cho máu của anh đấy.”
“Vậy là các cậu chưa có gì.”
“Bóng chim tăm cá.”
Bánh của Hodges được đưa ra. Ngon đã ngon mà ăn còn ngon hơn.
Khi người bồi bàn đi khỏi, Pete nhoài người qua bàn. “Cơn ác mộng của tôi là hắn sẽ lại ra tay lần nữa. Tôi sợ một đợt sương mù nữa sẽ tràn vào từ hồ và hắn sẽ lại ra tay lần nữa.”
Hắn bảo rằng sẽ không làm nữa, Hodges vừa nghĩ vừa tọng một nĩa tướng thánh ngon lành đó vào miệng. Hắn bảo hắn hoàn toàn không có thôi thúc nào. Hắn bảo một lần là quá đủ.
“Trò đó hoặc trò khác,” Hodges nói.
“Tôi cãi nhau một trận ra trò với con gái tôi hồi tháng Ba,” Pete nói. “Cãi nhau như mổ bò. Tôi không gặp con bé một lần hồi tháng Tư. Thế là nó bỏ hết những dịp gặp cuối tuần.”
“Vậy sao?”
“Vậy đấy. Con bé muốn đi xem một cuộc thi của đội cổ vũ. Bring the Funk, tôi nghĩ đó là tên cuộc thi thì phải. Hầu như là tất cả các trường trong bang đều tham gia. Anh có nhớ là Candy lúc nào cũng phát rồ lên vì bọn con gái trong đội cổ vũ không?”
“Ừ,” Hodges nói. Ông chẳng nhớ.
“Nó có một chiếc váy xếp ly bé xíu hồi mời bốn hay sáu tuổi gì đó, chúng tôi không sao dứt được nó ra khỏi cái váy. Hai bà phụ huynh nói họ sẽ đưa bọn con gái đi. Còn tôi thì bảo Candy là không. Anh biết tại sao chứ?” Đương nhiên là ông biết.
“Vì cuộc thi diễn ra ở City Center, đó là lý do. Trong tâm trí của mình, tôi có thể hình dung ra cảnh một nghìn đứa con gái mới lớn đua đòi cùng mẹ chúng lượn lờ bên ngoài, chờ cửa mở, vào lúc trời nhập nhoạng tối thay vì bình minh, nhưng anh biết đó cũng là lúc sương mù ở hồ tràn vào nữa. Tôi có thể tưởng tượng cảnh thằng khốn kiếp ấy lao vào họ trong một chiếc Mercedes ăn cắp khác - hoặc lần này có khi còn là một chiếc Hummer chết tiệt nữa - và lũ trẻ cùng các bà mẹ chỉ biết đứng đó, ngó sững như con hươu gặp đèn pha. Vì thế tôi bảo không. Lẽ ra anh phải được nghe con bé hét vào mặt tôi lúc ấy, Billy ạ, nhưng tôi vẫn bảo không được. Con bé không chịu nói chuyện với tôi cả tháng liền, và sau đó nó vẫn không chịu nói chuyện với tôi trừ phi Maureen đưa nó đến. Tôi đã bảo Mo là tuyệt đối không được, thách cô dám, và cô ta nói, đó là lý do tại sao tôi bỏ anh, Pete, vì tôi phát ốm với việc phải nghe anh nói đừng hòng với lại thách cô dám rồi. Và tất nhiên là đã không có chuyện gì xảy ra.” Anh ta uống nốt chỗ bia còn thừa, và lại nhoài người qua.
“Tôi hy vọng là có nhiều người ở cùng tôi khi chúng tôi tóm được hắn. Nếu tôi mà tóm được hắn một mình, chắc riêng tội làm tôi bất hòa với con gái cũng đủ khiến tôi giết hắn rồi.”
“Vậy còn hy vọng có nhiều người làm gì?”
Pete ngẫm nghĩ, rồi bối rối mỉm cười. “Anh nói cũng có lý.”
“Cậu có bao giờ băn khoăn về bà Trelawney không?” Hodges buông câu hỏi một cách bâng quơ, nhưng ông đã nghe về Olivia Trelawney rất nhiều từ khi bức thư nặc danh thả qua khe cửa. Thậm chí từ trước đó. Vài lần trong quãng thời gian xám xịt sau khi nghỉ hưu của mình, ông còn mơ thấy bà ta. Khuôn mặt dài đó - khuôn mặt của một con ngựa rầu rĩ. Bộ mặt như muốn nói chẳng ai hiểu cả và cả thế giới này chống lại tôi. Ngần ấy tiền và không sao đếm nổi những điều may mắn trong đời bà ta, đầu tiên phải kể đến việc không phải trông vào đồng lương. Đã không biết bao nhiêu năm trôi qua kể từ dạo bà T phải cân đối lại tài khoản của mình hoặc theo dõi máy trả lời tự động để canh chừng những cuộc gọi từ bọn thu hồi nợ, vậy mà bà ta chỉ đếm được những điều tiêu cực, kể lể vụn vặt một danh sách dài những lần cắt tóc hỏng và cánh phục vụ thô lỗ. Bà Olivia Trelawney với những chiếc váy cổ thuyền chẳng ra kiểu dáng gì của bà ta, khăng khăng rằng đã là thuyền thì chỉ có ngoặt về mạn phải hoặc về mạn trái. Đôi mắt ầng ậc nước dường như lúc nào cũng chỉ chực trào lệ. Chẳng có ai ưa bà ta, và trong đó bao gồm cả Thanh ra Bậc Một Kermit William Hodges. Chẳng ai ngạc nhiên khi bà ta tự tử, trong đó cũng bao gồm cả chính tay Thanh tra Hodges này. Cái chết của tám con người - chưa kể thương tật của rất nhiều người khác - là một gánh nặng rất lớn đè lên lương tâm.
“Băn khoăn gì về bà ta cơ?” Pete hỏi.
“Rằng rốt cuộc bà ấy có nói thật không. Về chiếc chìa khóa.”
Pete nhướng mày. “Thì bà ta tưởng là mình đang nói thật. Anh cũng biết điều đó rõ như tôi. Bà ta tự ru bản thân mình triệt để đến nỗi khéo bà ta còn qua được bài kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối ấy chứ.”
Đúng là như vậy, và cả hai người họ đều chẳng lấy làm ngạc nhiên về Olivia Trelawney. Chúa biết là họ đã từng gặp những người khác giống bà ta. Những tên tội phạm chuyên nghiệp luôn chột dạ ngay cả khi chúng không hề gây ra một hoặc nhiều tội ác mà chúng bị lôi vào để thẩm vấn, bởi vì chúng biết thừa rằng mình có tội nào đó. Những công dân tử tế lại không thể nào tin nổi đó là sự thật, và khi họ bị gọi lên thẩm vấn trước khi truy tố, Hodges biết, rất hiếm khi là có liên quan đến súng đạn gì. Không, thông thường là dính đến xe cộ. Tôi cứ tưởng mình đã cán qua một con chó, họ khẳng định như vậy, và bất kể họ có nhìn thấy gì qua gương chiếu hậu sau cú xóc nẩy kép khủng khiếp ấy, họ vẫn quả quyết tin là vậy.
Chỉ là một con chó.
“Tôi vẫn thấy băn khoăn,” Hodges nói. Thầm hy vọng là mình đang tỏ ra nghĩ ngợi thay vì giục giã.
“Thôi nào, Bill. Anh cũng thấy những gì tôi thấy mà, và bất kỳ lúc nào anh cần một cuộc tái khởi động, anh có thể ghé qua đồn và xem những bức ảnh.”
“Tôi biết mà.”
Những hợp âm đầu tiên của bản “Nighton Bald Mountain” vang lên từ túi chiếc áo khoác hiệu Men’s Warehouse của Pete. Anh ta móc điện thoại ra, nhìn nó, và nói, “Tôi phải nghe điện thoại đã.”
Hodges phác một cử chỉ xin-cứ-tự-nhiên.
“A lô?” Pete nghe máy. Mắt anh ta mở to, rồi anh ta đứng bật dậy nhanh đến nỗi chiếc ghế suýt đổ nhào. “Gì cơ?”
Những thực khách khác ngừng ăn và nhìn quanh. Hodges chăm chú nhìn.
“Đúng rồi… đúng rồi! Tôi sẽ tới đó ngay. Sao cơ? Đúng rồi, đúng rồi, được rồi. Đừng chờ, cứ đi đi.”
Anh ta đóng gập điện thoại và ngồi xuống. Anh ta đột nhiên sáng bừng lên rạng rỡ, và trong khoảnh khắc đó Hodges ghen tị với anh ta khủng khiếp.
“Tôi phải đi ăn với anh thường xuyên hơn mới được, Bill. Anh đúng là bùa may mắn của tôi, trước giờ vẫn thế. Chúng ta nói về điều gì là y như rằng điều đó xảy ra.”
“Chuyện gì cơ”, ông chắc mầm, Chính là gã Mercedes. Ý nghĩ tiếp sau đó thì vừa lố bịch vừa thảm hại: Lẽ ra hắn phải là của mình.
“Izzy vừa gọi. Cô ấy mới nhận cuộc gọi của một viên đại tá cảnh sát bang ở hạt Victory. Một nhân viên kiểm lâm đã phát hiện ra mấy cái xương trong một mỏ đá khoảng một tiếng trước. Cái hố chỉ cách chỗ nghỉ hè bên hồ của Donnie Davis chưa đầy hai dặm, và anh biết sao không? Mấy cái xương có vẻ như còn dính cả những gì còn lại của một chiếc váy.”
Anh ta giơ tay qua bàn. Hodges đập tay ăn mừng vào đó.
Pete cất điện thoại trở lại trong cái túi nhàu nhĩ và rút ví ra. Hodges lắc đầu, thậm chí còn không thèm đánh lừa bản thân về cảm giác của ông lúc này: nhẹ nhõm. Nhẹ nhõm khủng khiếp. “Không, tôi mời. Cậu đi gặp Isabelle ở đó bây giờ à?”
“Đúng rồi.”
“Vậy lượn đi.”
“Được rồi. Cảm ơn vì bữa trưa.”
“Còn một điều này nữa, có nghe nói gì về Tumpike Joe không?”
“Đó là chuyện của bang,” Pete nói. “Và giờ là cả FBI nữa. Mời họ cứ tự nhiên. Theo như tôi biết thì họ vẫn chưa lần ra được gì. Vẫn chỉ đợi hắn ra tay lần nữa và trông vào vận may.” Anh ta liếc nhìn đồng hồ.
“Đi đi, đi đi”
Pete dợm bước ra ngoài, dừng chân, quay trở lại bàn, và hôn chụt lên trán
Hodges. “Rất vui được gặp anh, cưng ạ.”
“Biến đi,” Hodges bảo anh ta. “Người ta lại bảo bọn mình yêu nhau đấy.”
Pete đi khỏi với một nụ cười nhăn nhở trên mặt, và Hodges nghĩ về cái tên dạo trước họ vẫn dùng để tự gọi mình: Những con chó săn của Thiên đường.
Ông tự hỏi không biết bây giờ mũi mình còn tinh được đến đâu.
Đó là thời điểm một tháng trước khi người đàn bà họ Trelawney nuốt những viên thuốc, có thể là còn ít hơn thế, và không một ai trong vụ tên Sát nhân Mercedes mảy may đếm xỉa gì. Đối với họ - và cả ông - bà T. chỉ là một mụ nhà giàu ích kỷ nhất định không chịu thừa nhận vai trò của mình trong những chuyện đã xảy ra.
Chiếc Mercedes SL bị đánh cắp khi đang đậu ở khu trung tâm, nhưng bà Trelawney, một bà góa mất ông chồng giàu sụ vì một cơn đau tim, lại sống ở Sugar Heights, một khu ngoại ô giàu có đúng như tên gọi của nó, khu này có rất nhiều lối đi quây kín cổng dẫn đến những tòa dinh thự mười bốn và hai mươi phòng. Hodges lớn lên ở Atlanta, và cứ mỗi khi lái xe qua Sugar Heights là ông lại nghĩ đến một khu phố hoa lệ của Atlanta được gọi là Buckhead.
Mẹ của bà T., Elizabeth Wharton, sống trong một căn hộ - một căn hộ rất đẹp, với những phòng to rộng như lời hứa của một ứng cử viên chính trị - tại một tòa chung cư cao cấp trên đại lộ Lake. Căn hộ có cả phòng cho một quản gia sống cùng, và một y tá riêng đến ba ngày mỗi tuần. Bà Wharton bị bệnh vẹo cột sống nặng, và thuốc Oxycontin của bà là thứ người con gái đã lấy trộm trong tủ thuốc của căn hộ khi quyết định từ giã cõi đời.
Tự tử càng chứng tỏ có tội. Ông nhớ câu nói đó của Trung úy Morrissey, nhưng bản thân Hodges thì vẫn luôn nghi ngờ, và dạo gần đây những nghi ngờ đó càng trở nên mạnh hơn bao giờ hết. Giờ thì ông biết rằng mặc cảm tội lỗi không phải là lý do duy nhất khiến con người ta tự tử.
Đôi khi có thể chỉ là vì bạn thấy buồn chán với chương trình ti vi buổi chiều.
Danh Sách Chương:
Bạn đang đọc truyện trên website TruyenConvert.NET
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK