Hodges bước vào trong bếp nhà Hartsfield. Cái mùi đó đập vào ông ngay tức khắc. Phảng phất thôi, nhưng đúng là có. Tay trái cầm điện thoại còn tay phải cầm khẩu 38 của bố mình, đầu tiên Hodges theo dấu mùi vào phòng khách - trống không, dù cái điều khiển ti vi và mấy quyển catalog vương vãi trên bàn cà phê khiến ông nghĩ rằng cái ghế sofa là chiếc ổ ở dưới nhà của bà Hartsfield - và sau đó ông đi lên cầu thang. Ông càng đi thì càng thấy mùi nặng hơn. Chưa đến nỗi nồng nặc, nhưng cũng là theo chiều hướng đó.
Có một đoạn hành lang ngắn trên tầng, một cửa bên phải và hai cửa bên trái. Trước hết ông mở phòng bên phải. Đó là phòng cho khách mà lâu lắm rồi chẳng có khách nào ở. Nó vô trùng như một căn phòng mổ.
Ông lại cập nhật với Jerome trước khi mở cánh cửa đầu tiên bên tay trái. Đây là nơi cái mùi đó tỏa ra. Ông hít một hơi thật sâu rồi bước vụt vào trong, cúi lom khom cho đến khi ông tự trấn an rằng không có ai sau cánh cửa. Ông mở tủ - cánh cửa là loại gập quanh bản lề ở giữa - và đẩy đống quần áo ra sau. Không có ai.
“Jerome? Bác đây.”
“Có ai ở đó không?”
Ừm… cũng có. Tấm vải phủ của chiếc giường đôi đã được kéo trùm lên một hình thù không lẫn và đâu được.
“Chờ chút.”
Ông nhìn dưới gầm giường và không thấy có gì ngoài một đôi dép, một đôi giày thể thao màu hồng, độc một chiếc tất ngắn màu trắng, và mấy cục bông bụi. Ông kéo tấm vải phủ xuống và mẹ của Brady Hartsfield nằm đó. Da bà ta trắng bệch như sáp, thấp thoáng một sắc xanh lợt lạt. Miệng bà ta há hốc. Mắt bà ta, mờ đục và trừng trừng, đã bắt chặt vào hai hốc. Ông nhấc một cánh tay lên, lay nhẹ, để nó rơi xuống. Giai đoạn cứng đờ đã đến và đi.
“Nghe này, Jerome. Bác vừa tìm thấy bà Hartsfield. Bà ta chết rồi.”
“Ôi lạy Chúa.” Cái giọng mọi khi vẫn người lớn của Jerome lạc đi ở từ cuối.
“Vậy bác đang…”
“Chờ chút.”
“Bác lại nói thế rồi.”
Hodges đặt điện thoại xuống chiếc bàn cạnh giường và kéo tấm vải phủ xuống tận chân bà Hartsfield. Bà ta mặc pajama lụa màu xanh. Chiếc áo loang lổ đầy những thứ nhìn như là bãi nôn và một chút máu, nhưng không thấy có lỗ đạn hoặc vết thương do bị đâm. Mặt bà ta sưng phù, nhưng không có dấu vết xung huyết hoặc bầm giập trên cổ. Hiện tượng sưng chỉ là hành trình phân hủy từ từ của thần chết. Ông kéo áo bà ta lên đủ để nhìn thấy bụng. Giống mặt bà ta, nó cũng hơi phồng, nhưng ông đánh cược đó chỉ là chướng hơi. Ông ghé sát miệng bà ta, nhìn vào trong, và thấy những gì đã lường trước: đờm nhầy vón cục trên lưỡi và những khe trống giữa lợi và má bà ta. Ông suy đoán là bà ta uống say bí tỉ, nôn thốc nôn tháo bữa ăn cuối cùng của mình, rồi ra đi như một ngôi sao nhạc rock. Chỗ máu có thể từ cổ họng của bà ta. Hoặc một khối u dạ dày kịch phát.
Ông cầm điện thoại lên và nói, “Có thể hắn đã đầu độc bà ta, nhưng khả năng bà ta tự gây ra cho mình thì nhiều hơn.”
“Rượu à?”
“Có thể. Không giải phẫu tử thi thì không thể xác định.”
“Bác muốn bọn cháu làm gì?”
“Ngồi yên.”
“Chúng ta vẫn không gọi cảnh sát sao?”
“Chưa.”
“Holly muốn nói chuyện với bác.”
Một thoáng lặng như tờ, rồi tiếng cô vang lên trên máy, trong như tiếng chuông. Giọng cô nghe thật bình tĩnh. Kỳ thực còn bình tĩnh hơn cả Jerome.
“Tên bà ta là Deborah Hartsfield. Deborah kết thúc là chữ H ấy.”
“Làm tốt lắm. Đưa điện thoại cho Jerome.”
Một giây sau Jerome lên tiếng, “Cháu hy vọng bác biết mình đang làm gì.” Bác đâu biết, ông vừa nghĩ vừa kiểm tra phòng tắm. Bác mất trí rồi và cách duy nhất để lấy lại nó là buông chuyện này đi. Cháu biết vậy còn gì.
Nhưng ông nghĩ đến cảnh Janey tặng cho ông chiếc mũ mới - cái mũ phớt thám tử tư sành điệu của ông - và biết là ông không thể. Không đời nào.
Phòng tắm sạch trơn… hoặc gần như thế. Có vài sợi tóc trong bồn rửa. Hodges nhìn thấy nhưng không để tâm. Ông đang nghĩ đến sự khác biệt cơ bản giữa cái chết do tai nạn và giết người. Giết người thì thật tệ, vì trong hầu hết các trường hợp giết 13
◄○►
Hodges bước vào trong bếp nhà Hartsfield. Cái mùi đó đập vào ông ngay tức khắc. Phảng phất thôi, nhưng đúng là có. Tay trái cầm điện thoại còn tay phải cầm khẩu 38 của bố mình, đầu tiên Hodges theo dấu mùi vào phòng khách - trống không, dù cái điều khiển ti vi và mấy quyển catalog vương vãi trên bàn cà phê khiến ông nghĩ rằng cái ghế sofa là chiếc ổ ở dưới nhà của bà Hartsfield - và sau đó ông đi lên cầu thang. Ông càng đi thì càng thấy mùi nặng hơn. Chưa đến nỗi nồng nặc, nhưng cũng là theo chiều hướng đó.
Có một đoạn hành lang ngắn trên tầng, một cửa bên phải và hai cửa bên trái. Trước hết ông mở phòng bên phải. Đó là phòng cho khách mà lâu lắm rồi chẳng có khách nào ở. Nó vô trùng như một căn phòng mổ.
Ông lại cập nhật với Jerome trước khi mở cánh cửa đầu tiên bên tay trái. Đây là nơi cái mùi đó tỏa ra. Ông hít một hơi thật sâu rồi bước vụt vào trong, cúi lom khom cho đến khi ông tự trấn an rằng không có ai sau cánh cửa. Ông mở tủ - cánh cửa là loại gập quanh bản lề ở giữa - và đẩy đống quần áo ra sau. Không có ai.
“Jerome? Bác đây.”
“Có ai ở đó không?”
Ừm… cũng có. Tấm vải phủ của chiếc giường đôi đã được kéo trùm lên một hình thù không lẫn và đâu được.
“Chờ chút.”
Ông nhìn dưới gầm giường và không thấy có gì ngoài một đôi dép, một đôi giày thể thao màu hồng, độc một chiếc tất ngắn màu trắng, và mấy cục bông bụi. Ông kéo tấm vải phủ xuống và mẹ của Brady Hartsfield nằm đó. Da bà ta trắng bệch như sáp, thấp thoáng một sắc xanh lợt lạt. Miệng bà ta há hốc. Mắt bà ta, mờ đục và trừng trừng, đã bắt chặt vào hai hốc. Ông nhấc một cánh tay lên, lay nhẹ, để nó rơi xuống. Giai đoạn cứng đờ đã đến và đi.
“Nghe này, Jerome. Bác vừa tìm thấy bà Hartsfield. Bà ta chết rồi.”
“Ôi lạy Chúa.” Cái giọng mọi khi vẫn người lớn của Jerome lạc đi ở từ cuối.
“Vậy bác đang…”
“Chờ chút.”
“Bác lại nói thế rồi.”
Hodges đặt điện thoại xuống chiếc bàn cạnh giường và kéo tấm vải phủ xuống tận chân bà Hartsfield. Bà ta mặc pajama lụa màu xanh. Chiếc áo loang lổ đầy những thứ nhìn như là bãi nôn và một chút máu, nhưng không thấy có lỗ đạn hoặc vết thương do bị đâm. Mặt bà ta sưng phù, nhưng không có dấu vết xung huyết hoặc bầm giập trên cổ. Hiện tượng sưng chỉ là hành trình phân hủy từ từ của thần chết. Ông kéo áo bà ta lên đủ để nhìn thấy bụng. Giống mặt bà ta, nó cũng hơi phồng, nhưng ông đánh cược đó chỉ là chướng hơi. Ông ghé sát miệng bà ta, nhìn vào trong, và thấy những gì đã lường trước: đờm nhầy vón cục trên lưỡi và những khe trống giữa lợi và má bà ta. Ông suy đoán là bà ta uống say bí tỉ, nôn thốc nôn tháo bữa ăn cuối cùng của mình, rồi ra đi như một ngôi sao nhạc rock. Chỗ máu có thể từ cổ họng của bà ta. Hoặc một khối u dạ dày kịch phát.
Ông cầm điện thoại lên và nói, “Có thể hắn đã đầu độc bà ta, nhưng khả năng bà ta tự gây ra cho mình thì nhiều hơn.”
“Rượu à?”
“Có thể. Không giải phẫu tử thi thì không thể xác định.”
“Bác muốn bọn cháu làm gì?”
“Ngồi yên.”
“Chúng ta vẫn không gọi cảnh sát sao?”
“Chưa.”
“Holly muốn nói chuyện với bác.”
Một thoáng lặng như tờ, rồi tiếng cô vang lên trên máy, trong như tiếng chuông. Giọng cô nghe thật bình tĩnh. Kỳ thực còn bình tĩnh hơn cả Jerome.
“Tên bà ta là Deborah Hartsfield. Deborah kết thúc là chữ H ấy.”
“Làm tốt lắm. Đưa điện thoại cho Jerome.”
Một giây sau Jerome lên tiếng, “Cháu hy vọng bác biết mình đang làm gì.” Bác đâu biết, ông vừa nghĩ vừa kiểm tra phòng tắm. Bác mất trí rồi và cách duy nhất để lấy lại nó là buông chuyện này đi. Cháu biết vậy còn gì.
Nhưng ông nghĩ đến cảnh Janey tặng cho ông chiếc mũ mới - cái mũ phớt thám tử tư sành điệu của ông - và biết là ông không thể. Không đời nào.
Phòng tắm sạch trơn… hoặc gần như thế. Có vài sợi tóc trong bồn rửa. Hodges nhìn thấy nhưng không để tâm. Ông đang nghĩ đến sự khác biệt cơ bản giữa cái chết do tai nạn và giết người. Giết người thì thật tệ, vì trong hầu hết các trường hợp giết một thành viên gia đình gần gũi là cách một kẻ bệnh hoạn nguy hiểm bắt đầu hành trình cuối của hắn. Nếu là tai nạn hoặc tự tử, có thể vẫn còn thời gian. Brady có thể đang ẩn náu ở đâu đó, tìm cách quyết định phải làm gì tiếp theo.
Thật quá gần với những gì mình đang làm, Hodges nghĩ bụng.
Phòng cuối cùng trên tầng là của Brady. Giường không được dọn. Mặt bàn chất bừa bộn sách, hầu hết là sách khoa học viễn tưởng. Có một tấm poster phim Terminator trên tường, Schwarzegger đeo kính đen và vung vẩy một khẩu súng voi khủng vác về từ tương lai.
Tôi sẽ quay lại, Hodges vừa nghĩ vừa nhìn tấm poster.
“Jerome? Bác đây.”
“Cái lão bên kia đường vẫn đang theo dõi bọn cháu. Cô Holly nghĩ là bọn cháu nên vào trong.”
“Chưa được.”
“Khi nào?”
“Khi bác chắc chắn chỗ này an toàn đã.”
Brady có phòng tắm riêng. Nó cũng ngăn nắp như tủ quân trang của một binh sĩ Mỹ trong ngày kiểm tra. Hodges đảo mắt lướt nhanh qua căn phòng, rồi trở xuống dưới nhà. Có một góc tường thụt vào chỗ phòng khách, vừa đủ chỗ cho một chiếc bàn nhỏ. Trên đó là một chiếc laptop. Một chiếc xắc tay treo ở sau ghế bằng quai đeo. Trên tường là một bức ảnh lớn lồng khung chụp người phụ nữ trên nhà và một phiên bản thời thiếu niên của Brady Hartsfield. Hai mẹ con đang đứng trên bãi biển ở đâu đó quàng tay ôm nhau và áp chặt má vào nhau. Cả hai cùng nở một nụ cười triệu đô giống hệt nhau. Trông giống kiểu tình nhân hơn là mẹ và con trai.
Hodges thích thú ngắm nhìn tên Sát nhân Mercedes trong những ngày non tơ của hắn. Không có gì trên khuôn mặt cho thấy thiên hướng sát nhân, nhưng tất nhiên là có bao giờ như thế đâu. Nét giống nhau giữa hai mẹ con rất mờ nhạt, chủ yếu là hình dáng mũi và màu tóc. Bà ta là một phụ nữ xinh xắn, thực sự chỉ thiếu một chút nữa có thể nói là đẹp, nhưng Hodges sẵn lòng đoán rằng bố của Brady không có những nét đẹp tương tự. Thằng bé trong bức ảnh nhìn có vẻ… bình thường. Một thằng nhóc ta sẽ bỏ qua trên phố mà không thèm liếc đến cái thứ hai.
Có lẽ hắn lại thích như thế, Hodges nghĩ, Người Vô hình.
Ông quay trở lại bếp và lần này thì phát hiện một cánh cửa cạnh bếp lò. Ông mở nó ra và nhìn cái cầu thang dốc đứng dẫn thẳng vào bóng tối. Nhận ra mình tạo thành một cái bóng hắt hoàn hảo cho bất kỳ kẻ nào có thể ở dưới kia, Hodges vừa dịch sang một bên vừa lần tìm công tắc điện. Ông tìm thấy nó và lại bước vào ngưỡng cửa với khẩu súng giương lên. Ông thấy một cái bàn làm việc. Phía sau nó, một cái giá ngang tầm thắt lưng chạy hết chiều dài của căn phòng. Trên giá là một dãy máy tính. Nó làm ông nghĩ đến Trung tâm Điều khiển Sứ mệnh ở Mũi Canaveral.
“Jerome? Bác đây.”
Không chờ nghe câu trả lời, ông đi xuống, khẩu súng trong tay này và điện thoại trong tay kia, hoàn toàn hiểu rõ điều này là hành động làm tha hóa kinh dị đến nhường nào toàn bộ quy trình đã được thiết lập của cảnh sát. Nếu chẳng may Brady đang ở dưới cầu thang với khẩu súng của hắn, sẵn sàng bắn rụng chân Hodges khỏi mắt cá? Hoặc giả sử hắn đã đặt bẫy? Hắn có thể làm được; đến lúc này thì Hodges biết điều đó quá rõ.
Ông không vấp phải dây bẫy nào, và tầng hầm thì trống trơn. Có một tủ để đồ, cánh cửa để mở, nhưng bên trong thì không có đồ gì. Ông chỉ thấy những chiếc giá trống trơn. Trong một góc là một chồng hộp giày. Có vẻ như chúng cũng trống trơn nốt.
Thông điệp, Hodges nghĩ, là hoặc Brady đã giết mẹ hắn hoặc về nhà và phát hiện bà ta đã chết. Dù thế nào thì sau đó hắn cũng đã lặn mất. Nếu đúng là hắn có thuốc nổ thì chúng đã ở trên những ngăn giá này (có lẽ là trong những cái hộp giày) và hắn đã mang chúng đi.
Hodges đi lên nhà. Đã đến lúc đưa những cộng sự mới của ông vào. Ông không muốn kéo họ vào sâu hơn những gì họ đã dấn vào nhưng dưới hầm có mấy cái máy tính. Ông chẳng biết quái gì về máy tính cả. “Đi vòng ra phía sau,” ông nói. “Cửa bếp mở đấy.”
Danh Sách Chương:
Bạn đang đọc truyện trên website TruyenConvert.NET
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK