• Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Xứ Saigon ở ăn vui thú, chốn tỉnh thành tựu đủ tứ dân, ngựa xe qua lại rần rần, người lui tới chen chơn đà không lọt. Buổi chiều nọ trăng thanh lố cụm (1), trẻ già ra bóng mát dạo chơi, dây kìm đâu phút trỗi hơi, tiếng lọt, gió đưa lảnh lót; ca trách chút thân bèo bọt, nghe ra chẳng sót một lời, dưới bóng lầu người ta tựu biết mấy mươi, ai nghe cũng khen tời mỹ nữ.

Bỗng đâu thấy một trang nam tử, chẳng phải người lạ xứ tới đây, nhơn sao mình bận đồ tây, chơn mang giày lên gót; hình dung xem càng tươi tốt, diện mạo nhắm đoan trang, trán rộng mặt ngang, mũi lân mắt phụng; lũi đi tới không thèm ngó chúng, xăm bước vào mở khóa lên thang, tay vịn lầu chơn bước mấy tầng, kiếm tớ kêu rân mà chẳng thấy.

Thầm trách con tớ gái, chẳng nghe lời dạy tiếng răn, biểu ở đây phục sự tình nhân sao lại có rảnh chơn trái bước. Vào phòng nội mắt nhìn sau trước, kém chi đài Hồng Tước Nhị kiều dựa vách treo đờn địch tiêu thiều, trên bàn để biết bao nhiêu báu vật.

Ngọn gió tây phưởng phất, mùi đâu bay nực mùi thơm, ghế bàn trưng coi thật là rơm, tủ cẩn ốc kép đơn đủ cách. Kiếng rọc cạnh treo hai bên vách, tượng tranh đồ khéo rất lạ lùng, vén màn lên thì thấy giường mùng, trắng như tuyết nệm êm gối điệu.

Một gái nhỏ hình dung yểu điệu, tuổi cập kê mắt phụng mày tầm, má phấn môi son dầu ai thấy cũng thương thầm, hình tươi trắng nết na đầm thắm lắm. Ra chào bạn tay kia liền nắm, mầng tri âm hai má giao kề, hỏi sao nay phu tướng chậm về, làm cho thiếp mỏi mê chờ đợi?

Ái Nhơn (2) nói: “Có bằng hữu tới, mãn chuyện trò nên mới chậm về, bậu nay sao buồn thảm ủ ê, dường như việc gia tề hữu sự?”

“Hai Long mới mở lời ướm thử, đem thiếp ra khỏi xứ Saigon, ở đây e chẳng vuông tròn, thằng Thoàn (3) tới đêm hôm khó liệu. Tối hôm qua bóng trăng còn chiếu, ngó xuống lầu thấy nó vởn vơ, đi chẳng đi thơ thẩn thẩn thơ, quân ác nghiệt nghĩ mà thêm sợ.”

Ái Nhơn hai tay ôm vợ, vuốt ve rồi nhắc thuở ban sơ, lúc tam canh gặp trước nhà thờ, nàng quì khóc khấn nguyền Thiên Chúa. Ta thấy vậy không màng tiền của, đem nàng về kết tóc xe tơi, cuộc gió trăng năm trước nào ngời, nàng nói lại cho ta hãn dạ.

“Từ ngày mà gặp nhau tới nay, tuy chăn gối chưa tường vàng đá, tuy chung phòng nàng đâu rõ ngọn ngành; như phận ta: Xưa tưởng là chôn xác đầu gành, hay đâu đặng tồn sanh như thế. Trôi giữa biển thân ta nào kể, phước trời giành có kẻ vớt nuôi, thuở nên năm nay đã hai mươi, nương đất khác nên người trở lại.

May gặp bậu vầy duyên kim cải, mấy trăng dư còn ngại chi nhau, nỗi oán thù duyên cớ làm sao, phân cạn lẽ cho ta lưỡng đắc.”

Hai Long ngồi rưng rưng nước mắt, chàng ôi: “Nhắc lại càng ruột thắt gan bầm, nghèo khổ nên nắng dãi mưa dầm, thuở mười tuổi chịu mồ côi mẹ. Chốn rừng núi trước sau quạnh quẽ, hai cha con hẩm hút cùng nhau, buổi cơ hàn cam phận cháo rau, ..” nhắc tới lúc nàng buông tiếng khóc.

“Vào nhà phước ở mà ăn học, trọn bảy năm mới trở về nhà, xóm láng giềng thường bữa lại qua, nên quen với thị Hoa cùng Hà thị.”

“Nàng hãy phân cho tận lý, đặng ta hiểu ý đầu đuôi, vậy chớ thị Hoa cùng Hà thị nào đâu, nói như vậy ta âu khó biết?”

“Thị Hoa là bạn thiết, tỉ tất của Hà Hương, sớm cùng trưa lui tới thường thường, khi cơm nước khi thời chuyện vãn. Hà Hương thiệt là người xứng đáng, sắc dường gương tài lại gồm no, rầu chồng con nên nỗi ốm o, mang lấy bịnh ho thác nhục.

Một buổi nọ có người tâm phúc, đến kêu tôi mà tỏ chút tin bà, Nghĩa Hữu thì không có ở nhà, lịnh lang Thoàn cũng đà phóng đãng. Qua tới đó thấy bà mê sảng, thị Hoa thì sợ oản khóc than, bà tháp hơi gắng gượng thở than: “Ái tử hỡi suối vàng con có biết!”.

Thưở Ái Nhơn cách biệt, tuổi nên năm rõ việc chi đâu, bởi vậy ngồi nghe cạn kể đuôi đầu, mẹ thác mà không sầu không thảm.

Hai Long tiếp rằng: “Ai nấy thấy cũng đều thảm thiết, quá giờ thìn bà biệt cõi trần, hạ qua thu tới lần lần, tôi kết ngỡi Tấn tần cùng công tử. Thời cũng tưởng keo sơn nắm giữ, đặng có ngày ngư thủy tương phùng, dè đâu lịnh thân người chẳng nghĩ thỉ chung, chê nghèo khó mới ra đến đỗi. Bạch tĩ Thoàn tỏ bày mọi nỗi, nếu ở đây chăn gối lỡ làng, thừa cơ ta lén bước chân, tìm chốn khác én anh vầy hiệp.

Tỉnh Biên Hòa t mau xá kiếp, sự tương giao phú cho đất trời, dẫu rằng cho vật đổi sao dời, lời sanh tử giữ lời sanh tử. Tin bụng chồng thiếp không dò ý tứ, lại thêm chàng rõ biết, gái dầu không khéo dỗ cũng xiêu; bút mực đầu tay tả ít điều, để lại đó cho phụ thân hãn dạ.

Người lạ cảnh đâu cũng lạ, ba ngày đường tới chợ Biên Hòa, đoạn thảm nầy chi xiết kể ra, sầu chẳng ở mới lần qua Thủ Đức. Chợ Thủ lại càng buồn bực, thiếp không đành mới bức ra đi, người chẳng vui cảnh nhắm cũng sầu bi, bi càng lụy, lụy tuôn chẳng ráo.

Tới Saigon mướn người nương náu. Tình phu thê chẳng chút mặn nồng, thiếp thì mong kết ngỡi vợ chồng, Thoàn lại quyết lòng ong bướm. Ngồi nhớ cha mắc tôi càng đượm, cho chàng hay tôi trở lại nhà, thà dưới thềm thọ tội cùng cha, hơn trăng gió cùng chàng càng hổ.

Bạch tĩ Thoàn bây giờ mới tỏ, có tin nhà gởi lại báo tang, rằng cha tôi bịnh nặng chẳng an, mãn sầu trẻ nên đành mạng bạc.

Gái như thiếp hại cha thậm ác, con như tôi bất hiếu đã đành, én lạc đàng nghĩ phận buồn tanh, vô thân thích biết đâu tìm tới. Giằng lòng thiếp mới đành ở lợi, cuộc ấp yêu Bạch tĩ đắm mê, nhân mà mê theo việc bướm huê, nào phải đạo phu thê hòa hảo.

Thiếp nghĩ càng ngơ ngáo, muốn bỏ đi mà khó nổi trốn đi, chim ở lồng không thế làm chi, phải xếp cánh chờ tay tế độ. Bạch tĩ Thoàn tánh hay tật đố, nết cang cường gây gỗ với lính quan, hẹn cùng nhau tới chốn xa đàng, quyết trải mật phơi gan mà rửa hận. Nào hay nỗi tiểu quạn mạng tận, bị Thoàn đâm mũi giáo vong thân, nó thật là đấng sát nhân, thiếp lỡ dại biết làm sao đặng.

Tay nhúng chàm, nghĩa càng cay đắng, phận hồng nhan mỏng mảnh mấy ngày? Đất hộ nầy lớn nhỏ ai ai, đều biết nó là tay cờ bạc. Thường rủ chúng về nhà đổ bác, gặp hồi hên ăn đặng mấy ngàn, một đêm kia chơi với viên quan, thua thầy Phán Cao Man sạch hết.

Bạch tĩ Thoàn bộ mệt, mồ hôi tuôn ướt hết áo quần, còn túi không người lại kinh tâm, ngồi ngơ ngẩn khôn toan khó liệu. Mới liều mạng đến đền đặt chịu, gặp hồi xui thua thiếu trót ngàn, thầy Phán thôi, từ giã ra đàng, về gia nội nghỉ an kẻo trễ.

Bạch tĩ Thoàn thiệt là rất tệ, giả đưa người bước kế theo sau, tới giữa vườn nó mới rút dao, đâm thầy Phán té nhào vong mạng. Chừng thấy nó vào mới hãn, tay cầm tiền áo nhuộm máu hồng, thiếp oản hồn vụt hét thinh không, rồi ra cửa chạy dông như chệt.

Tới giũa vườn mệt đà quá mệt, đạp nhằm thây thầy Phán nằm dài, thiếp lại càng sợ chạy như bay, chạy tới cửa nhà thờ té sấp.

May gặp chàng ra ơn cứu cấp, đem thiếp về gá ngỡi kim châm; ở Cầu kho nó cũng theo tầm, lại hăm giết cho đặng chàng giựt thiếp. nay ra “ga” nó đà theo kịp, vậy ta mau xá kiếp lánh thân, nó thiệt là một đứng sát nhân, nếu nó gặp không phân vàng đá. ”

Nhơn nghe nói sặc cười hả hả, tánh đờn bà lòng dạ hẹp suy: “Thoàn những dầu làm sự tế vi, ta há để người khi kẻ nhạo. Nàng mựa đừng sầu não, mà điên đảo tâm tình, để ta đi tìm lưỡi gươm linh, cấp về rình phòng nội. Thoàn mà có lén vào tăm tối, ta cũng nguyền xin đổi mạng cùng; Thoàn anh hùng Nhơn lại chẳng anh hùng, Thòa hào kiệt Nhơn há không hào kiệt?”

Nói dứt lời chàng liền từ biệt, nhắm chừng nhà bạn thiết bôn ba, bỗng đâu lại gặp tớ nhà, chàng mới quở la đôi tiếng.

Cũng tại bởi con nầy mà sanh chuyện, túi tham nghe hơi bạc thì mầng, khi Ái Nhơn chậm bước trễ chân, Hai Long nhớ bưng khuâng tấc dạ. Mới sai tớ rảo theo đàng sá, cùng là nơi quán xá tửu lầu: “Gặp cậu mầy thỉnh lại cho mau, kẻo lòng tao trông đợi.”

Rảo kiếm cùng đàng Mới, rồi qua tới Ca-ti-Na, gặp Thoàn núp bóng trăng già, mưu kế chàng đà sắp đặt. Bạc nọ phang vào mặt, túi tham ắt thuận tình, dặn dò sau trước đinh nhinh, rồi mới lộ trình trỗi bước.

Bởi vậy Ái Nhơn tới trước, nàng còn lược bước ở sau; gặp Ái Nhơn ra cửa chạy nhào, Nhơn mới quở nàng sao chậm trễ.

Nghĩ việc nhơn tình rất tệ, nghe hơi đồng chẳng kể chút ơn, quyết làm cho rời rã keo sơn, đặng mà lảnh bạc thưởng còn hơn ở vậy.

Bước vào rồi cửa không khóa lại, để đó chờ Thoàn tại thang lầu, Thoàn đi ngang nàng ngoắc xốc vào, mầng đặng kế mầu rất nhiệm.

Bạch tĩ Thoàn tánh tình sâu hiểm, lấy bạc cho rồi biểu kiếm đường dông, để mặt chàng lên chốn loan phòng, kiếm lời ngọt giục lòng thục nữa.

Nàng Hai Long đang ngồi tư lự, vẳn tai nghe động cửa phía ngoài, nàng nín thinh ngồi nghĩ suy hoài, chưa biết là ai tới đó: “Con tỉ tất thường vào không gõ, bữa nay lại có lạ dường; lang quân thời mới bước ra đường, chẳng lẽ lẹ bườn sức ngựa. Vậy thì ai tới đây gõ cửa, hay là oan gia theo nữa cùng chăng?”

Còn đang suy bỗng thấy một chàng, xô cửa vén màn bước tới. Nàng Hai Long giựt mình ngó lợi: “Ủa nầy, Bạch tĩ Thoàn sao dám tới chốn ni, phải mau chơn ra khỏi phòng nầy, chậm bước chẳng toàn thây toàn mạng.”

Thoàn cười mà rằng: “Cô nó ôi, nỡ lòng nào căm giận, đành dạ đoạn tóc tơ, chẳng nhớ khi gánh nặng ta chờ, qua truông đợi bây giờ xao lãng. Ta nói thiệt, anh hào dầu tuyệt mạng, ta cam lòng cho hãn gió mây, vợ chồng như cầm sắc bén dây, cớ sao khiến rẽ bầy anh yến.

Những ngỡ ngọc chìm đáy biển, dà đâu còn ẩn tiếng Côn – can, kể từ nàng lén bước đi ngang, đêm luống canh tràng thao thức. Hột lụy tuôn đà chẳng dứt, nghĩ xa càng tức tấm tình, nhớ tới câu giai ngẫu tự nhiên thành, thậm trách trời xanh khuấy phá. Tới bữa ăn lụy tuôn lả chã, nuốt vô dường như đá há biết ngon, đêm nằm dạ lại thon von, gà gáy nhẫn còn than thở.

Xin cô nó nghĩ tình một thuở, sửa sang rồi trở lại nhà, cùng nhau hôm sớm vào ra, kẻo bướm trông hoa mòn mỏi, tội nghiệp nào!”

Hai Long rằng: “Thôi thôi, mựa đừng mong nói xảo, thiếp nghe láo đã nhàm, chàng ăn ở bạo tàn, thiếp vương mang hết kiếp. Chẳng tưởng tình thê thiếp, học đòi bướm hiệp hoa, đàng văn minh chàng quyết lánh xa, chằng chịu xuất của nhà buôn bán; để giỡn tiền đầy tháng, chơi tiên sáng đêm đông, tuy ví rằng: nhứt sĩ nhì nông, sánh lại thương với công đệ nhứt; chẳng khấn ra giành giựt, luốn không mà bỏ mất lợi nhà, trai như vầy còn thua trí đờn bà, tài chi đó mà chê Chà cùng Chệc.

Trăm điều đà không biết, muôn việc thảy bất thông, cứ lệ chiều diện xách ba-tong, ra quán uống “Bi-công Hoẹt múut”; no say rồi nhảy lên xe buýt, ngồi ngả nghiêng miệng hút xì –gà, dạo cùng đàng bảy ngả ba, tới cửa tú bà chun phóc; tay trên lần xuống móc, chừng nào vướng mắt-mèo sẽ gãi.

Thuốc á phiện đầy mâm đại hải, đôi ba nàng con gái nằm kềnh, thêm một nàng cầm ống lăng tiêm, còn đôi ả tranh kìm ca xướng.

Tưởng vậy là sung sướng, chẳng dè con sóng lượng nhận thuyền; rồi một lúc chơi tiên, sang qua cuộc giỡn tiền tới sáng. Không ngờ “mèo” nó phản, vào ngồi mổng đâm lòng, nghe cả sòng bợ đỡ kêu ông, hừng chí phình hông chịu đấm.

Nó ăn gỏi không chờ chanh giấm, bài cào thì bị lận ba-tây, vào sòng me có chiếc đũa mây, thêm bớt cái tay như nhiếp. Mắt tợ sao coi còn không kịp, huống chi rượu ba-ngù đã híp mí tree6n, làm sao mà chẳng hết tiền, tránh sao cho khỏi bị ghiền á phiện!

Đã vậy còn sanh nhiều chuyện, lúc túng cùng phải biến kế sâu, giết người giữa đám vườn cao, đoạt của lòng nào chẳng động. Bởi vậy thiếp nghĩ cánh chuồn phận mỏng, toan kiếm nơi dựa bóng tùng quân, nếu mà đeo theo chàng có thuở lụy thân, vàng cùng đá khó phân cho biệt.

Chồng thiếp là người trải việc, bán buôn tính toán thiệt hay, vậy mới phải duyên hài, vậy mới xứng tay thục nữ; không lòng hung dữ, cứ giữ dạ ngay, thôi chàng hãy đi ra, thiếp nay chẳng phải vợ ai, mà cạ vế kề vai vô ích.”

“Ủa! Nói vậy con nầy đà quyết nghịch, nãy giờ theo châm chích cô gia, nói như mi vậy, hễ không bán buôn không thủ lợi nhà, phải ở góa tới già sao hử? Nói êm không nhầm tứ, làm dữ ắt phải lòng, ta dễ nhịn mi cho mà coi, mau ra tay bắt sống Hai Long, đem về chốn cựu phòng yêu ấp.”

Gặp cơn nguy cấp, như lửa cháy mày, Hai Long la hét van vầy, mà không ai nghe hết. Kêu con tớ, tớ đâu mất biệt, réo ông chồng chồng nghiệt, chưa vào, cảm phận bèo sóng dợn nước xao, chưa rõ số hoa đào còn hết.

__

Chú thích:

1. Năm 1906 tháng bảy, ngày mồng mười.
2. Ái Nhơn bị quăng xuống biển, may thuyền chài cứu về nuôi, nay đã lớn
3. Con ruột Nghĩa Hữu, lớn hơn Ái Nhơn ba tuổi

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website TruyenConvert.NET
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK