Thời gian vội vàng trôi qua, đảo mắt đã qua một tháng.
Đỗ Hà đã sống ở Đại Đường hơn một tháng, lúc này đại khái cũng đã quen thuộc với tập tục sinh hoạt của Đại Đường. Cho dù chưa hoàn toàn dung nhập với thời đại này, nhưng Đỗ Hà đã xem mình như một người Đại Đường rồi. Trong một tháng này, Đỗ Hà ngoại trừ đi theo mẫu thân Chương thị học tập kinh sử thư pháp, còn thì toàn tâm tập trung vào tu luyện võ học. Thân thể Đỗ Hà quá yếu ớt, rõ ràng đã mười lăm tuổi, nhưng tố chất thân thể lại giống như một đứa trẻ, vô cùng yếu đuối, khiến cho Đỗ Hà cảm thấy buồn rầu.
May mắn Đỗ Hà lại thuộc võ công trong “Lưu Hương bảo giám” như lòng bàn tay, dùng kinh nghiệm của bản thân lấp đầy thiếu hụt của thân thể. Lúc rãnh rỗi cũng tiến hành rèn luyện thân thể.
Thời gian một tháng nói dài cũng không dài, nhưng cũng không ngắn. Đỗ Hà dựa vào kinh nghiệm của hậu thế để có thể tự động vận chuyển “Ngũ Khí Triều Nguyên”. Vận chuyển “Ngũ Khí Triều Nguyên” nhìn như đơn giản, nhưng thật ra muôn vàn khó khăn.
- Ngũ Khí Triều Nguyên có lẽ không phải nội công mạnh nhất đương thời, nhưng là nội công quái nhất đương thời.
Sở Lưu Hương sở dĩ khinh công thiên hạ vô song, công thần lớn nhất chính là cái mũi của hắn. Khoang mũi của Sở Lưu Hương không giống với người khác, vì vậy rất khó hô hấp. Nếu một người bình thường hô hấp không thông, cả ngày sẽ cảm giác choáng váng đầu óc, thống khổ hơn bất cứ cái gì, cho nên Sở Lưu Hương tự nghĩ ra một loại nội công đặc biệt, loại công lực này không có chỗ gì đặc biệt, nhưng sau khi học được, vận chuyển lại, con người có thể dùng lỗ chân lông trên da để hô hấp. Cho nên Sở Lưu Hương vận khởi khinh công đến mức không cần thở, khinh công trên người đương nhiên là thiên hạ vô song.
Chuyện Đỗ Hà cần phải làm chính là lợi dụng lỗ chân lông thay thế mũi để hô hấp, khiến cho hô hấp bằng lỗ chân lông trở thành thói quen, khiến cho nội công tự động vận chuyển, cho dù lúc ngủ hay làm việc cũng không ngừng nghỉ. Chỉ cần biến chuyện này thành thói quen, bất luận Đỗ Hà làm gì, nội công của hắn đều vận chuyển, luyện tập không ngừng nghỉ, đương nhiên có lợi ích rất lớn đối với tinh tiến võ công. Thân thể Đỗ Hà vốn đã quen chơi bời, ăn uống, hiện giờ khối thân thể này rất yếu đuối, nhất thời không cách nào làm được điểm này. Đỗ Hà phải tốn rất nhiều sức lực mới từ bỏ được thói quen hô hấp bằng mũi, để cho bộ tâm pháp “Ngũ Khí Triều Nguyên” tự vận chuyển trong cơ thể. Hiện giờ khinh công của hắn vẫn không kinh thế hãi tục bằng trước kia, nhưng cũng có bản lĩnh nhất định.
- Bây giờ là lúc làm quen với thế giới bên ngoài rồi!
Đỗ Hà thì thào tự nói, vì luyện công, một tháng nay hắn chỉ ở trong phủ Thái Quốc Công, không hề bước ra ngoài.
Tối hôm đó, trong lúc dùng bữa, Đỗ Hà nói với song thân:
- Cha, mẹ, hiện giờ thân thể hài nhi đã hoàn toàn khôi phục, ngày mai hài nhi định đến Hoằng Văn quán học tập!
Đỗ Hà muốn thích nghi với thế giới này, đương nhiên phải kết giao bằng hữu, nhận thức thế giới bên ngoài. Đỗ Hà hoàn toàn không biết thế giới bên ngoài như thế nào, cho nên trường học là nơi tốt nhất để tìm hiểu. Đỗ Như Hối, Chương Thị đưa mắt nhìn nhau, trong mắt hiện ra thần sắc lo lắng.
Bọn họ làm sao không biết thân thể Đỗ Hà không việc gì, chỉ là Đỗ Hà tuyệt đối không hề đề cập chuyện đi học, bọn họ còn tưởng rằng Đỗ Hà có tâm bệnh, không dám tới Hoằng Văn quán gặp đoàn người Trường Nhạc công chúa. Hai người thấy Đỗ Hà không còn chơi bời lêu lổng, mỗi ngày có thể hoàn thành việc học Chương Thị bố trí đúng giờ, hai người cũng không có ý định cưỡng cầu Đỗ Hà, định để hắn ở trong phủ “dưỡng bệnh”. Lần này thấy hắn chủ động yêu cầu đến Hoằng Văn quán, hai người thật sự cảm thấy lo lắng. Đỗ Hà nào biết suy nghĩ của phụ mẫu lại phức tạp như vậy, còn tưởng rằng bọn họ lo lắng mình trốn học không màng chính nghiệp như trước kia, liền cười nói:
- Cha mẹ yên tâm, hài nhi biết phải làm gì, tuyệt đối sẽ không để hai người lo lắng.
Nghe Đỗ Hà nói nhẹ nhàng như vậy, nhị lão gia chỉ có thể nhận lời.
Đỗ Như Hối nói:
- Chứng mất trí của con vẫn chưa hồi phục, ngày mai vi phụ sẽ mang con đi!
Đỗ Hà xác thực không biết Hoằng Văn quán ở nơi nào, gật đầu đồng ý. Hoằng Văn quán nằm trong môn hạ tỉnh, ra đời vào năm Vũ Đức thứ tư, có tổng cộng hơn hai mươi vạn cuốn sách, đủ các thể loại, có một Thiết quán chủ, tổng lĩnh quán vụ. Đệ tử mười mấy tên, đều được tuyển chọn từ hoàng thân quốc thích và con cháu quan lại cao cấp ở kinh thành, học kinh sử và thư pháp. Đỗ Như Hối đưa Đỗ Hà đến bên ngoài Hoằng Văn quán, không quên dặn dò:
- Nếu con không muốn, cha mẹ cũng không miễn cưỡng.
Đỗ Hà bình thản cười nói:
- Đây không phải đến trường đi học sao, miễn cưỡng gì chứ, hài nhi ngược lại rất thích thú.
Hoằng Văn quán giống như Thanh Hoa, Bắc Đại của Trung Quốc, là học phủ cao nhất của Đại Đường, Đỗ Hà là người đời sau, là một cử nhân tốt nghiệp khoa lịch sử, ngưỡng mộ văn hóa Đại Đường đã lâu, có thể tiến vào học phủ cao nhất của Đại Đường, học tập văn hóa Đại Đường, chính là chuyện có cầu cũng không được. Đỗ Như Hối thấy trên mặt Đỗ Hà hiện ra nụ cười, nhớ tới thay đổi những ngày qua của ái tử, khiến phụ mẫu an lòng, liền vui vẻ rời đi.
Lúc này có lẽ gần đến thời gian lên lớp, dọc đường Đỗ Hà thấy hơn mười thiếu niên đi cùng đường, nhưng tất cả đều tỏ ý tránh né Đỗ Hà, không muốn tới làm bạn, thậm chí có kẻ còn chỉ trỏ sau lưng hắn. Xem ra nhân duyên của tên khốn này cũng không phải xấu xa bình thường.
Đỗ Hà đã chịu nhiều nỗi khổ của Đỗ Hà trước kia, trong lòng thầm mắng tên hỗn đản kia mấy chục lần, nhưng tính hắn vốn cởi mở cũng không thèm để ý, một mình đi đến chỗ Đỗ Như Hối chỉ cho.
Đỗ Hà xuyên qua mấy hành lang gấp khúc, thấy trước mắt là một đại viện, có một bức tường cao hơn đầu người ôm trọn đại viện từ tây sang đông. Trong nội viện có đủ loại thúy trúc, một trận gió thổi qua, khiến lá trúc trong nội viện thi nhau rung động. Chính giữa bức tường vây có một cổng vòm hình tròn, trên cửa có khắc bốn chữ “Thính Đào thư viện”.
- Chính là chỗ này!
Đỗ Hà thấy trên phần đề chữ có viết ba chữ “Lý Thế Dân”, phía dưới danh tự còn có ấn tỉ của Lý Thế Dân, hắn thầm líu lưỡi, nếu thứ này ở đời sau, tùy tiện có thể bán được một trăm tám mươi vạn.
- Thanh Liên huynh!
Khi Đỗ Hà còn đang quan sát bút tích của hoàng đế Đại Đường, chợt có một người đi đến vỗ vai hắn. Thanh Liên là tên tự của Đỗ Hà, bình thường, sau khi quan lễ mới được trưởng lão ban chữ, nhưng cũng có ngoại lệ, giống như Đỗ Hà. Nghe nói một đêm trước khi Đỗ Hà sinh ra, Chương thị nằm mơ thấy trên một vũng bùn mọc ra một bông hoa sen cực kỳ diễm lệ. Cổ nhân tin tưởng nhất là chuyện nằm mộng, Đỗ Như Hối cũng không ngoại lệ, lúc này ứng mộng lấy tên cho nhi tử vừa ra đời của mình là Hà, lấy chữ Thanh Liên, tựa hồ hy vọng hắn như đóa sen, mọc trên nước bùn mà không nhiễm bẩn. Nhưng xem những hành vi từ trước đến nay của Đỗ Hà, có thể thấy hắn đã làm vấy bẩn nhã danh này.
Đỗ Hà quay đầu lại nhìn người vừa đến, đối phương là một thiếu niên trạc tuổi hắn, trên người mặc áo dài màu xanh da trời, tóc tết khăn vuông, thân mật ôm hắn, nháy mắt ra hiệu, có vẻ rất thân mật.
- Ngươi là ai?
Đỗ Hà hoàn toàn không có trí nhớ đối với thiếu niên này.
Thiếu niên kia thống khổ kêu to:
- Không thể nào, Thanh Liên huynh, ngay cả tiểu đệ mà ngươi cũng quên? Tiểu đệ đã từng chặt đầu gà, đốt giấy vàng kết bái huynh đệ với huynh trong thanh lâu. Tiểu đệ là Phòng Di Ái!
Phòng Di Ái!
Đỗ Hà trợn trừng mắt nhìn vị nhân huynh này, vị trượng phu của Cao Dương công chúa, một trong những nữ nhân cường hãn nhất trong lịch sử, người đại diện cho thói ngoại tình bưu hãn nhất, tấm gương của đồng chí Lục Mạo.
Đồng chí Lục Mạo, đây là cách nói của người Trung Hoa ám chỉ người bị vợ cắm sừng (coi như đội mũ xanh)