• Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Lại nói chuyện năm Bính Thân, niên hiệu Thịnh Đức thứ bốn (1656), tháng hai, gián điệp của Nam triều là bọn Văn Tường, Nho Hoàng và Khoái Đức ra Bắc thăm dò tin tức ở bốn trấn trở về, vào dưới trướng trình với đốc chiến Chiêu Vũ rằng:

- Dân bốn trấn ngoài Bắc đều đã nghiêng lòng hướng phục, sẵn sàng dấy binh đánh họ Trịnh.

Đốc chiến Chiêu Vũ nghe xong cả mừng. Tiếp đó, Nho Hoàng đem trình bức thư mật của ký lục Hồ. Đốc chiến Chiêu Vũ tiếp lấy mở ra xem, thư viết:

"Ngu lão quê mùa là Phạm Hữu Lê kính vái trình bức thư đến dưới cờ của quan đốc chiến là đại tướng quân Chiêu Vũ hầu thẩm xét:

Người xưa thường nói: Kẻ trượng phu ở đời gặp bậc minh chủ hiểu mình, bàn nói được nghe, hiến kế được dùng, ấy là duyên cá nước. Ngày nay có thể nói là trông mong được như vậy. Nay ngu lão tôi đi làm thuyết khách ở các nơi xa, giữa đường may gặp sứ giả của quý quan đốc chiến phái ra, cùng chuyện trò mấy câu tỏ lời tim phổi, thật duyên may ngàn năm có một.

Những muốn cùng sứ giả rong ruổi các nơi khuyên Hồ về Tống, lẽ nên cùng thăm hỏi gần xa để dụ Bắc vào Nam. Nhưng nghĩ sâu: e sứ giả đi không có tin về, lại sinh điều nghi ngại.

Dám phiền sứ giả trở về thay lời trình báo. Lòng thành thực nông cạn, mong tướng quân cao minh lượng xét, tâu trình lên chúa thượng. Sau đó xin cho sứ giả trở lại cùng với ngu lão đi các nơi ở đất Bắc để chiêu dụ dân chúng vâng thuận mệnh trời, giúp thánh triều sáng nghiệp trời Nam. Công thành tất cơ đồ rộng mở, xã tắc nhà Lê vững yên. Lòng thành kính trình, xin quý quan đốc chiến chớ nghi ngại. Nay thư".

Đốc chiến Chiêu Vũ xem xong thư cả mừng, trọng thưởng cho cả ba người. Rồi đó Chiêu Vũ đến báo tin với tiết chế Thuận Nghĩa. Tiết chế Thuận Nghĩa đón Chiêu Vũ vào trong trướng cùnh ngồi. Chiêu Vũ nói:

- Hồi năm ngoái chúng ta đã sai bọn Văn Tường ra bốn trấn ngoài Bắc trần thuyết hơn thiệt, chiêu dụ hào kiệt dấy quân diệt trừ họ Trịnh, ai nấy đều vui lòng tuân lệnh, xin nhóm nghĩa binh, đồng lòng hướng phục. Nay có ký lục Hồ ở Sơn Tây đã gửi thư vào đây.

Tiết chế Thuận Nghĩa hỏi bọn Văn Tường:

- Các ông ra bốn trấn ngoài ấy thấy tình hình hư thực ra sao? Có phải họ thật lòng ra sức dấy binh khuông phò đế thất, cứu vớt sinh dân, hay đó chỉ là lời dối trá?

Văn Tường đáp:

- Bọn anh em chúng tôi lén đi bốn trấn, nói rõ công việc, ai nấy nghe lời đều nghiến răng cắn lợi, căm giận bọn chúa Thanh, nói rằng: Nếu quân Nam vượt tiến sang phía Bắc sông Lam, ruổi dài ra Bắc thì xứ Hải Đông (1) sẽ đoạt lấy thóc thuế để tuyệt lương thực của họ Trịnh, xứ Cao Bằng sẽ dấy quân chiếm đóng thành Đoàn (2), chia bớt thế lực của quân Trịnh. Ngoài Sơn Tây sẽ nổi dậy làm nội ứng, đoạt lấy trấn thành. Người xứ Sơn Nam xin làm tiên phong chặn đánh để chùn bớt mũi nhọn của quân Trịnh. Thảy đều thật tâm, không phải là lời dối trá (3).

Tiết chế Thuận Nghĩa nghe Văn Tường nói xong cả mừng, nói với Chiêu Vũ:

- Ông dùng mưu như thế thì quỷ thần cũng không lường trước được. Đến Gia Cát, Tử Phòng đời xưa cũng không hơn nổi.

Đốc chiến Chiêu Vũ nói:

- Ấy đều là nhờ phúc của chúa thượng, ý trời khiến nên. Bốn trấn nghiêng lòng, khắp nơi hướng phục, thần người đều ủng hộ cho nên mới được như thế, đâu phải là Chiêu Vũ này có tài cán gì. Nay lòng người đã thuận, trời người đều theo giúp. Binh pháp nói: Thành công do quả quyết, thất bại bởi chần chừ. Xin tiết chế sớm định kế xuất quân đánh đuổi bọn quận Đương, ruổi dài đánh lấy Trung đô để hoàn thành sự nghiệp lớn. Người xưa có câu: "Trời cho không lấy, lại chuốc tai ương", xin tiết chế xét định.

Tiết chế Thuận Nghĩa nói:

- Đốc chiến nói rất phải.

Bèn thăng trướng cho gọi các tướng đến hội họp ở Dinh Cầu chia quân đặt tướng, theo thứ tự trước sau chờ hiệu lệnh xuất quân. Ở chính đạo, sai trấn thủ Phù Dương, ký lục Thịnh Hội làm tiên phong. Tiết chế Thuận Nghĩa chỉ huy đội trung quân. Chưởng cơ Triều Khang dẫn quân chính doanh đi sau tiếp ứng. Quân chính đạo tiến đến núi Hằng Lãng (4) phá lũy đánh quân của quận Hằng quận Hán cùng cùng bọn thự vệ Ninh Lộc, Vinh Dương, Bật Trung ở xã Bân Xá (5). Quân thượng đạo do cai cơ Lưu Diên làm tiên phong (6), cai cơ Thiêm Vinh, Đăng Doanh, Thọ Lộc, hữu đô đốc Mậu Long làm tả hữu vệ trận, trấn thủ Đại Thắng chỉ huy đội trung quân, vệ úy Thuần dẫn quân tiến sau tiếp ứng. Quân thượng đạo tiến đến sông Minh Giang (7) đánh trại quân của quận Lại và thự vệ Tường Trung rồi chuyển hướng tiến, hội với quân chính đạo phá lũy Hằng Lãng.

Quân hạ đạo do cai cơ Diên Lược dẫn quân bản bộ làm tiên phong, cai cơ Phù Tài, ký lục Cống Giác chỉ huy đội trung quân, đốc chiến Chiêu Vũ đem quân đi tiếp ứng. Quân hạ đạo đến Lũng Hống thẳng tiến đánh lũy Bân Xá, đốt lửa làm hiệu để đánh về phía sau doanh trại của quận Hằng, quận Hán cùng bọn thự vệ Ninh Lộc, Vinh Dương, Bật Trung.

Chia đặt các cánh quân đã xong, tiết chế Thuận Nghĩa nói:

- Bọn chúng ta hưởng lộc hậu của nước, nay vâng lệnh của chúa thượng ủy thác, sử sách ghi tên, tiếng thơm muôn đời. Mong các tướng đồng lòng hợp sức diệt trừ đảng Trịnh, khuông phò đế thất. Các ông phải dũng mạnh ra uy, diệt bọn quận Đương cứu giúp trăm họ. Đấy là chí khí của kẻ anh hùng!

Các tướng đều chắp tay vâng đáp:

- Xin tuân tướng lệnh của tiết chế!

Rồi đó ai nấy trở về bản trại sửa soạn xuất quân.

Ngày mồng hai tháng hai, giờ Dậu, quân các đạo trước sau thứ tự tiến phát.

Trước hết, nói về cánh quân ở hạ đạo do đốc chiến Chiêu Vũ chỉ huy. Giờ Dậu tiến quân, tiên phong Diên Lược tiến đến Lũng Hống gặp lính tuần bên Trịng chống cự. Quân Nam nhất loạt hô lớn một tiếng, nhằm bắn tới tấp, lính tuần bên Trịnh thua to bỏ chạy vào rừng. Quân Nam bắn theo, thấy mộl bà già trúng tên nằm chết ở cửa rừng. Diên Lược chuyển báo với đốc chiến Chiêu Vũ.

Chiêu Vũ nói:

- Quân ta mới tiến vào đường hẻm đã giết được một mụ yêu tinh, thế là điềm "âm tiêu, dương trưởng", ắt thành công đại thắng!

Nói đoạn cho quân tiến thẳng vào rừng. Bấy giờ đã sang canh tư. Đường núi hiểm trở, phía trước lại có khe sâu ngoằn ngoèo khó đi, Chiêu Vũ bèn truyền lệnh cho quân dừng lại, rại(? ) nghỉ đợi trời sáng. Chiêu Vũ vừa thiu thiu chợp mắt trên bành voi, bỗng nghe trên không có tiếng gọi lớn: "Quân Nam tiến mau có ta ở đây phù trợ, không được trì hoãn!". Chiêu Vũ liền choàng dậy vái tạ trời đất rồi truyền lệnh lên đường.

Quân Chiêu vũ đi sâu vào rừng đến eo núi ở xã Mẫn Tường thì trời vừa sáng. Bỗng gặp Quận Lũng Vũ Văn Thiêm đem thủy quân lên bờ. Quân hai bên gặp nhau ở eo Mẫn Tường. Tướng tiên phong Diên Lược cho quân xông vào đánh gấp. Quân quận Lũng đại bại, phải chạy về xã Đằng Đề (8), lại dàn quân chống cự.

Quân hai bên đối trận đánh lớn từ giờ Mão đến giờ Tý (9), tiếng súng nổ rền như sấm động, đạn bay như sao sa. Hai bên vẫn giằng co chưa phân thắng bại. Đốc chiến Chiêu Vũ tức giận, ngửa mặt lên trời cầu khấn xin thần minh phù trợ như lời hứa trước, rồi đó thúc quân xông tràn, thế mạnh như sét đánh. Thự vệ Tường Trung trở tay không kịp liền bị chém đầu trước trận (10).

Quận Lũng Vũ Văn Thiêm kinh hoảng thua chạy về sông Khu Độc, vứt thuyền vượt sông mà chạy trốn vào xã Miêu Nha, Ngũ Khố rồi tránh lén tìm đường trở về Vĩnh Dinh. Quân Nam đuổi dài thẳng tiến.

Đến giờ Ngọ (11), đốc chiến Chiêu Vũ xuống lệnh thu quân, nổi khói lửa khuếch trương thanh thế để đợi quân chính đạo.

Nói tiếp quân chính đạo của tiết chế Thuận Nghĩa tiến đến sông Minh Giang, đánh trại quân của quận Đương Đào Quang Nhiêu. Cánh quân thượng đạo do trấn thủ Đại Thắng chỉ huy tiến thốc đến núi Hằng Lãng đánh bọn quận Hán, quận Hằng. Quận Đương nghe tin vội sai tướng chia quân chống cự, Hai bên giao chiếm lớn, súng nổ như sấm giật không ngớt, đạn bay lả tả đầy trời, chiêng trống vang đậy trời xanh, cờ xí che rợp đất, Quân Nam Bắc cầm cự không phân thắng bại. Tướng Trịnh là quận Hán khua quân xốc đánh, bị tướng bên Nam là Đăng Doanh doanh đón chém hạ. Quân Trịnh cả bại tháo chạy.

Chợt có tên quân chạy đến báo với quận Đương:

- Tướng bên Nam là Chiêu Vũ đánh tan quân của quận Lũng ở sông Khu Độc, đốt hết lương thực khí giới của quân ta, khối lửa bốc rừng rực.

Quận Đương cả kinh, ngoái đầu thấy lửa bốc lưng trời, khói tro mù mịt. Lại có tên quân đến báo:

- Tướng Nam là Chiêu Vũ đã đánh tan quận Hằng, quận Hán, các thự vệ Ninh Lộc, Vinh Dương, Bật Trung bo lũy chạy vào chùa Thiên Tượng (12), vượt sang xã Bân Xá lánh trốn, hiện không biết đang ở đâu.

Quận Đương Đào Quang Nhiên càng thêm kinh hãi luống cuồng, lại thấy bên Nam tướng hùng binh mạnh, liệu thế khó địch nổi, bèn bỏ lũy chạy trước về Vĩnh Dinh. Bấy giờ quân Trịnh không có tướng chỉ huy, mạnh ai nấy trốn, tự giết hại lẫn nhau. Trận này quân Trịnh bị giết thây chất đầy đồng, máu chảy thành ngòi rãnh, tiếng kêu khóc vang khắp gần xa. Quân Nam thu nhặt được voi ngựa súng đạn khí giới binh giáp chiến cụ nhiều không kể xiết.

Tiết chế Thuận Nghĩa truyền lệnh cho ba quân hội cả ở lũy Bân Xá mở tiệc khao mừng, bình công xét thưởng. Rồi đó bèn thu quân về đóng trại ở chợ Vân Cát. Một mặt viết khải văn gửi về tâu chúa và làm sổ ghi quân công (quân công bạ) sai chức sự là Văn Hiển đem về dâng nộp ở vương đình.

Hiền vương mở xem khải văn cả mừng, sai chức sự là Tài Mỹ đem vàng bạc tiền lụa ra chợ Vân Cát trọng thưởng cho tiết chế Thuận Nghĩa, đốc chiến Chiêu Vũ và các tướng văn võ theo thứ bậc khác nhau, cùng là khao thưởng ủy lạo ba quân. Mọi việc đã xong, Tài Mỹ truyền đạt mệnh lệnh của chúa Hiền:

- Chúa thượng bảo đạo vua tôi cũng như nghĩa cha con, một khắc không thể quên khuấy. Ta coi các tướng như chân tay, các tướng phải tận đáp như lòng trung. Nay quân ta đã đến núi báu, chẳng lẽ lại về tay không. Chư tướng các ông phải đồng tâm hiệp lực đểgiúp rập nhà chúa mở nghiệp lớn ở trời Nam, dẹp trừ kẻ ngoan ngạnh ở đất Bắc, tên tuổi lưu truyền sư xanh. Thế mới gọi là anh hùng đất Nam Việt.

Các tướng vái vọng lĩnh mệnh, khỏan sứ giả của chúa rồi ai nấy trở về bản trại chỉnh đốn binh mã sẵn sàng tiến đánh thu phục Trung đô.

Lại nói quân Trịnh, quận Đương Đào Quang Nhiêu và quận Lũng Vũ Văn Thiêm cả bại phải chạy về Vĩnh Dinh, thu thập tàn binh bại tướng kiểm điểm tướng hiệu binh sĩ thấy chết trận mất quá nửa, số bị thương nhiều không kể xiết, mất tích hai tướng là quận Hán và thự vệ Tường Trrung. Quận Đương vội sai người đi tìm hỏi mới biết hai tướng đều đã bị giết tại trận. Quận Đương cả kinh, than rằng:

- Chỉ mới tháng trước đây ta từng khoe khoang trước mặt chúa, chê bai bọn quận Khê bất tài, đoán chắc ra quân là thành công. Ngờ đâu bây giờ hao binh tổn tướng, tội không gì to bằng! Còn mặt mũỉ nào mà vác xác về trước mặt chúa, trông thấy triều đình! Chi bằng trốn lánh sang Ai Lao chiêu binh mãi mã để báo thù chuộc tội!

Quận Lũng Vũ Văn Nhiêm nói:

- Như thế không được! Một thắng, một thua, đó là lẽ thường của binh gia. Chớ nên vui kiêu khi thắng, mà cũng chớ nên lo buồn khi thlla. Xin nguyên súy gấp sai người dâng biểu về triều nhận tội, sau là để xin quân cứu viện. Ấy là kế lưỡng toàn vậy. Còn như trốn sang Ai Lao là mắc tội bất trung, khiến cho hậu thế chê cười.

Đào Quang Nhiêu ghe lời quận Lũng, bèn viết khải sai người đem về triều đình trình lên Thanh Vương Trịnh Tráng nhận tội thua trận, xin triều đình cho quân vào cứu viện.

Thanh vương Trịnh Tráng biết tin, cả giận, bảo triều thần rằng:

-Quận Đương là kẻ sất phukhoe môi múa mép. Nay bị quân Nam đánh bại, chết quân mất tướng, tội khó dung tha. Triều đình nghĩ nên xử thế nào?

Văn quan là đô đốc đồng tri thượng khanh Dự quận công bước ra nói rằng:

- Tội của quận Đương đã qná rõ. Nhưng xét lẽ thì được thua vốn sự thường. Ngày xưa Hán Cao Tổ bảy mươi hai lần bại, chỉ một lần thắng mà nên nghiệp vương. Hạng Vũ thắng luôn, nhưng chỉ một lần bại mà nước mất, thân chết. Xin chúa thượng gấp sai binh hùng tướng mạnh vào chống giữ quân Nam để yên lòng dân, vẫn nên cho quận Đương có dịp để lập công chuộc tội. Như thế thì quận Đương được hàm ơn, dẫu gan óc bết đất cũng không dám quên ơn chúa.

Trịnh Tráng nghe lời quận Dự, cơn giận có nguôi phần nào, bèn hỏi các tướng:

- Trong các tướngai dám đem quân vào chặn địch, bẻ bớt nhuệ khí của bọn chúng, để quân Nam khỏi lấn lướt coi thường quân ta?

Các tướng đều nói:

- Bọn thần thấy thái bảo Ninh quận công (13) là tướng tài dũng song toàn, nên được giao trọng quyền. Còn như người khác nếu không phải là chỗ thân thuộc của chúa thì không thể giao phó được.

Thanh vương Trịnh Tráng bèn phong cho thái bảo Ninh quận công Trịnh Tuyền (14) làm đại nguyên súy, đô đốc đồng tri thượng khanh Dự quận công (15) làm tham mưu, thống lĩnh bốn vạn quân thủy bộ tiến vào huyện Thạch Hà. Quân của chính doanh đóng trại ở xã Đan Chế (16),quân bộ đóng ở hai xã Thanh Bộc (17), Đại Nài (18), quân thủy đóng ở cửa Nam Giai và Đan Nhai (19) Thái bảo Ninh Quận công Trịnh Tuyền vâng lệnh đem quân tiến vào Thạch Hà. Đến Vĩnh Dinh, Trịnh Tuyền dừng quân đóng trại, sửa soạn để tiến đánh. Bọn quận Đương Đào Quang Nhiêu và quận Lũng Vũ Văn Thiêm đều đến trước trướng chịu tội. Thái bảo Ninh quận công nói:

- Lệnh của chúa tha tội cho hai ông để hai ông có dịp lập công. Hai ông phải gắng sức đồng lòng để báo thù trước, chuộc lỗi cũ.

Hai tướng vui mừng lạy tạ trở về bản doanh luyện tập quân lính, sẵn sàng tiến đánh. Người đương thời có bài thơ Đường luật bình luận rằng:

Muôn thủa đua tranh đám bụi trần,

Đo lường danh lợi lnhọc vào thân.

Hòai nghi hiếu sự đều chuyện nhảm,

Lại ngỡ không tài được hưởng nhàn.

Trẻ đến già đi xưa nay vẫn,

Nhục vinh theo gót thật ngang phần.

Khuyên người hãy chớ khoe sắc nhọn,

Giấc mộng đầy vơi chẳng thật chân!

Lại nói tướng Nam triều là tiết chế Thuận Nghĩa thấy quân Bắc lặng lẽ tiến nhưng chưa thấy giao chiến, chỉ chia quân đóng giữ làm kế lâu dài. Tháng ba, ngày hai mươi ba, tiết chế Thuận Nghĩa cho người mời đốc chiến Chiêu Vũ đến bàn bạc. Chiêu Vũ nói:

- Quân Bắc liên tiếp bị lhua, không dám chiến đấu, Trịnh Tráng tất thêm quân cố thủ, chờ bên ta lâu ngày mỏi mệt, hết lương ăn mới tung quân ra đánh. Ấy là kế "dĩ dật đãi lao" (lấy nhàn đánh mệt). Tôi đã nghĩ một kế an toàn không phải lo ngại, có thể bắt sống Trịnh Tráng như lấy vật trong túi.

Trong khi hai tướng đang bàn bạc bỗng có quân hầu vào báo tin: ký lục Hồ ở Sơn Tây sai Cống Ban theo đường bí mật tìm vào, hiện đang đợi trước quân doanh xin được yết kiến chủ tướng. Hai tướng vội xuống dưới thềm tiếp đón Cống Ban, mời vào trong trướng.

Chủ khách yên tọa đã xong, tiết chế Thuận Ngllĩa nói:

- Tiên sinh đường xa vào đây chắc có tin vui mừng?

Cống Ban đáp:

- Trước đây qui quan có mật truyền cho ký lục Hồ đi chiêu dụ các nơi, giao kết với anh hùng hùng kiệt bốn trấn ở Đàng Ngoài, hẹn cùng dấy binh đánh họ Trịnh, hướng về với Nam chúa. Ký lục Hồ vâng lệnh đi khắp trong bốn trấn để làm công việc đó. Ai nấy đều vui lòng nghe theo, hiện đã sẵn sàng, đợi quân Nam tiến ra thì đồng loạt hưởng ứng, trước sau cùng đánh họ Trịnh, giàntl phần thắng vẹn toàn. Ý nguyện của mọi người là như thế. Nhưng mới đây Thịnh Đức vương nhà Mạc ở Cao Bằng đã sai tám viên đại tướng đem quân tiến đánh Trung đô. Khi quân Mạc đến Đoàn thành (Lạng Sơn) thì Thanh vương Trịnh Tráng sai thái bảo Khê quận công Trịnh Trượng, Hộ khoa đô cấp sự trung Hưng Tạo tử (20) cầm đầu mười hai viên quận công đem một vạn hùng binh tiến đánh Cao Bằng. Quân của quận Khê bị quân Cao Bằng đánh gấp. Quận Khê thua to phải chạy về sông Thương. Quân Cao Bằng đóng giữ ở Đoàn thành, đợi quân Nam tiến ra thì kéo thẳng xuống đánh phá kinh đô để bắt sống cha con Thanh vương, Tây Định (21) hiến nạp cho Nam chúa để làm lễ vật tiến kiến.

Cống Ban nói đoạn lấy bức thư của ký lục Hồ trình lên. Hai tướng tiếp thư, cùng mở ra xem:

"Ngu sĩ xứ Sơn Tây là ký lục Hồ kính vái trình bức thư đến dưới cờ của quý tướng:

Trộm nghe người xưa có câu: Trời sinh hào kiệt tất sẽ giúp cho thành nghiệp lớn. Nay quý tướng mượn được tài hùng của trời, gồm được vũ lược của đời, tướng văn, tướng võ hòa diệu với nhau, quân lính một lòng, ly gián không nghe, gièm pha không động, quả là bậc anh hùng cái thế đời nay. Ngu tôi nghe thanh danh quý tướng mà khôn xiết vui mừng, xin cùng quý tướng kết làm chỗ chi thân khác họ. Cùng góp sức vì đại nghĩa, tình thân ái đã thành, công lao ắt có, không dám nói nhiều. Mong sao quý tướng theo gương Hán Cao Tổ mở đại lượng nghe theo sáu kế của Trần Bình: một là thi hành kế ly gián để làm nghi lâm quân địch; hai là giao kết rộng để hoàn thành mưu kế; ba là thu gồm hào kiệt để cùng hưởng thành công. Làm như thế nghiệp lớn ắt thành, dễ như trở bàn tay. Thời đã đến, thế đã kề, vận hội vừa ứng hợp.

Mong quý tướng chớ nên nghi ngại. Kính thư".

Tiết chế Thuận Nghĩa và đốc chiến Chiêu Vũ xem xong cả mừng, hỏi Cống Ban rằng:

- Bắc trấn đã dấy binh như thế (22) còn ba trấn khác ra sao?

Cống Ban đáp:

- Ba trấn khác cũng đồng lòng hướng phục.

Trong khi đang bàn luận, bỗng có viên do thám tên là Văn Dụ ra ba trấn ngoài Bắc trở về xin vào yết kiến.

Hai tướng hỏi:

- Ba trấn ngoài ấy động tĩnh ra sao?

Văn Dụ đáp:

- Ở Đông trấn (23) có quận Phấn đã mật truyền cho các nơi trong bản xứ đoạt giữ các thứthuế không giao nộp. Hai trấn Tây và Nam (24) đều đã sửa soạn dấy binh, đợi quân ta vượt sông Lam tiến ra sẽ đưa binh mạnh tiến theo sau tiếp ứng bảo vệ quân ta (25).

Hai tướng nghe báo tin cả mừng, bèn trọng thưởng cho Văn Dụ và mời các tướng cùng vào gặp gỡ, sai dọn tiệc khoản đãi Cống Ban. Yến tiệc xong, Cống Ban từ biệt ra về. Hai tướng muốn lưu lại khoản đãi vài ngày nữa, nhưng Cống Ban nói:

- Sau này công thành, ngàn năm chung hưởng, hà tất phải ở thêm mấy ngày!

Hai tướng nghe nói thế cũng không nài ép, bèn tiễn chân Cống Ban lên đường, bảo rằng:

- Tiên sinh về chuyến này, bọn chúng tôi gửi lời chào ký lục Hồ, mong tiên sinh nói lại rằng, tuy xa cách ngàn dặm nhưng cũng như đã gặp mặt đàm luận với nhau. Xin cứ nhớ lời nói trước là may mắn lắm. Đó là tình bạn của người quân tử.

Cống Ban vái tạ lên đường trở về trấn Sơn Tây.

Hai tướng nhận được tin tớc các nơi, vui mừng khôn xiết bèn truyền lệnh cho các đạo luyện tập quân sĩ, sửa soạn ghe thuyền chuẩn bị tiến quân.

Thượng tuần tháng năm, có người quê ở Thanh Hóa là Triều Nham từ kinh đô Thăng Long vào hàng. Triều Nham trình với tiết chế Thuận Nghĩa rằng:

- Dạo trước Thanh vương Trịnh Tráng nghe tin báo bọn quận Đương, quận Lũng thua trận ở núi Hằng Lãng, bèn triệu các tướng vào bàn xét. Rồi đó sai thái bảo Ninh quận công thống lĩnh bốn vạn quân thủy bộ vào đồn trú ở huyện Thạch Hà. Quân bộ thì đóng ở các xã Thanh Bộc, Đại Nài, qnân thủy đóng ở Cửa Sót, Cửa Hội; chia quân đóng giữ làm thế ỷ dốc để ngăn chặn quân Nam.

Tiết chế Thuận Nghĩa nghe xong, sai người đi mời đốc chiến Chiêu Vũ. Chiêu Vũ đến doanh tiết chế, vào trong trướng cùng ngồi bàn việc. Chiêu Vũ nói:

- Trước hết, nên sai người đem khải văn về bẩm với vương đình, sau sẽ họp các tướng để chia quân phá địch.

Hai tướng bèn soạn thảo khải văn, rồi sai tùy tùng là Văn Trí ngày đêm đi gấp đem về tâu trình. Rồi đó tiết chế Thuận Nghĩa triệu các tướng đến hội ở xã Na Khố (26), chia đặt các cánh quân theo thứ tự trước sau.

Về quân bộ thì chính đạo do trấn thủ Phù Dương làm khám chiến (27), Phú Nhan làm tiên phong; tiết chế Thuận Nghĩa cầm quân ởchính đội; trấn thủ Đại Thắng đem quân đi tiếp ứng, hẹn giờ Dần (28) ngày mồng mười tiến quân đến đầu xã Đại Nài đánh phá lũy thượng đạo của quận Đương. Quân hạ đạo do hai hàng tướng Đăng Doanh và Thọ Lộc làm tiên phong, hai tướng Phù Tài (29), Lưu Diên làm tả hữu vệ trận, Mậu Long chỉ huy đội trung quân, chưởng cơ Triêu Khang và thị chiến (30) Xuân Đài dàn quân chính doanh đi sau tiếp ứng, hẹn hội quân ở xã Thanh Bộc đánh phá lũy hạ đạo của quận Đương. Về quân thủy: cai cơ Hoằng Vinh dẫn mười lăm chiến thuyền làm tiên phong, trấn thủ Dương Trí và văn chức tên là Thuần (31) làm thị chiến dẫn hai mươi lăm chiến thuyền làm chính đội, sáng sớm ngày mười một tiến đến Cửa Sót tiến đánh thủy quân bên Trịnh do quận Xuân chỉ huy.

Đốc chiến Chiêu Vũ và thị chiến Cống Giác dẫn hai nghìn quân bộ và ba mươi thớt voi vào khoảng giờ Sửu (32) tiến đến núi Nam Giới đặt phục binh bắn vào thủy quân của quận Xnân, hộ vệ chiến thuyền của quân nhà tiến vào Cửa Sót. Tham tướng Vân Long dẫn ba mươi chiến thuyền đi tiên phong, trấn thủ Nghĩa Lâm làm thị chiến. Quảng Xuyên dẫn ba mươi chiến thuyền đi sau tiếp ứng, cùng tiến đánh vào Đan Nhai ở xã Hội Thống (33).

Chia quân đặt tướng đâu đó đã xong, tiết chế Thuận Nghĩa truyền cho các tướng tuân lệnh theo thứ tự tiến phát, ai trái lệnh sẽ xử lrị theo quân pháp. Các tướng đều tuân lệnh. Đến giờ Dần ngày mười một tháng năm các đạo quân chỉnh điểm binh mã tiến phát.

Chỉ thấy:

Binh uy lẫm liệt, gươm giáo sáng ngời.

Chiêng trống động trời xanh, cờ quạt che đất biếc.

Ngướờ người dũng tướng, ai nấy anh hùng.

Đồng lòng diệt địch, cùng một chí khí cướp cờ

chém tướng (34).

Nói tiếp về quân thủy do trấn thủ Dương Trí chỉ huy, chập tối ngày mồng mười cho chiến thuyền tiến phát. Giờ Tuất (35) đốc chiến Chiêu Vũ đem quân bộ, voi ngựa đến xã Lạc Đạo ở núi Nam Giới đặt quân mai phục. Dân xã Lạc Đạo thấy vậy phi báo cho tướng Trịnh là quận Xuân (36) biết tin, Quận Xuân vội sai người đến trình với nguyên súy thái bảo Ninh quận công. Quận Ninh liền sai quận Lý (37) đem hai mươi chiến thuyền đến tiếp ứng cho quận Xuân để cắt đường không cho thủy quân bên Nguyễn tiến đến núi Nam Giới dựa vào mạn thuyền mà bắn vào cửa biển, và không để cho chiến thuyền của quân Nam cặp bờ.

Quận Lý được lệnh vội đem chiến thuyền đến tiếp ứng cho quận Xuân. Tướng bên Nam là đốc chiến ChiêuVũ đứng ở núi Nam Giới trông thấy chiến thuyền của quận Lý đậu ở phía bờ đối diện, bèn hạ lệnh cho quân bắn mạnh. Quân hai bên đánh lớn mấy đợt chưa phân thắng bại. Bỗng thấy echuyến thuyền của trấn thủ Dương Trí dàn hàng ở phía ngoài cửa biển. Quận Xuân sai quân bắn tới rấo rát, chiến thuyền quân Nam không tiến vào bờ được. Đốc chiến Chiêu Vũ bèn chia quân đóng giữ các nơi bên bờ cửa biển, giương cờ làm hiệu, nhắm vào hội hình thuyền ngang (38) mà bắn liên tục trong suốt gần buổi sáng.

Trấn thủ Dương Trí ở ngoài biển nhìn vào bờ thấy cờ hiệu ngoài trắng giữa đỏ, biết là quân của đốc chiến Chiêu Vũ. Dương Trí quát vang một tiếng như sấm động rồi đốc thúc chiến thuyền tiến thốc lên. Quân thủy của Dương Trí bắn tới tấp vào thuyề địch. Quân Trịnh chết rất nhiều, thây rơi đầy sông Cửa Sót. Quân Trịnh thất thế, quận Lý, quận Xuân vội bỏ thuyền lên bờ chạy trốn.

Chiến thuyền của quân Nam tiến vào sông Cửa Sót, thế như rồng bay chớp giật. Quận Xuân trở tay không kịp, liền bị bắt sổng trước trận. Quân Nam thu được ba mươi sáu chiến thuyền cùng khí giới, quân lương nhiều không kể xiết.

Quận Lý một mình chạy trốn về Vĩnh Dinh cấp báo cho quận Ninh. Quận Ninh vội sai phò mã Trình đem bốn mươi chiến thuyền đến tiếp chiến. Thủy quân hai bắt gặp nhau đánh lớn, tiếng súng nổ vang như sấm dậy.

Bỗng có cơn gió nam bốc ngọn lửa lên cao, khói đen mù mịt trùm tỏa. Đoàn thuyền chiến của quân Trịnh như lạc vào giữa đêm đen, quân lính kinh sợ hoảng hốt bỏ thuyền chạy lên bộ. Quân không theo tướng, tướng chẳng đoái đến quân, mạnh ai nấy chạy, tìm đường lánh trốn.

Quân Nam thu được bảy mươi sáu chiến thuyền ở Cửa Sót. Phò mã Trình chạy về báo cho quận Ninh biết quân Nam khí thế sắc mạnh, khó bề chống giữ. Quận Ninh nghe nói cả sợ, bên lui quân về chiếm giữ lũy Đò Điềm (39).

Đốc chiến Chiêu Vũ thúc quân tiến đến chia các mặt vây lũy, đánh vào rất gấp. Quận Ninh thất thế, trông ngóng không thấy có quân cứu ứng, lặng người suy nghĩ hồi lâu. Bấy giờ quận Ninh phải nhận rằng các tướng bên Nam lắm trí nhiều mưu, quân Nam tinh nhuệ cường tráng, còn bên quân nhà thì thế cô lực yếu, như một muôi nước khó dập tắt đám cháy nghìn xe. Chi bằng hãy sớm đầu hàng để mưu hậu kế. Nghĩ vậy, Ninh quận công Trịnh Tuyền muốn đem quân ra hàng. Gặp lúc nước thủy triều rút xuống, tướng chỉ huy quân bên Nam là trấn thủ Dương Trí phải đem chiến thuyền lui về đóng giữ ở Cửa Sót. Đốc chiến Chiêu Vũ thấy vậy cũng muốn rút quân về để hỗ trợ quân thủy. Bên quân Trịch có tên lính dò biết tình hình như vậy liền phi báo với thái bảo quận Ninh: "Bên Nam, quân thủy quân bộ đều đã lui về đóng trại ở Cửa Sót, không rõ họ dùng kế sách gì?".

Quận Ninh nghe nói vậy cả mừng, không kịp gọi bảo quân sĩ vội bỏ cả đạn dược khí giới chạy về luỹ Đại Nài, cùng với quận Đương đóng quân chống giữ.

Chú thích :

(1) Tức Hải Dương.

(2) Tức trấn thành Lạng Sơn.

(3) Việc Nguyễn Hữu Dật sai người bí mật đi chiêu dụ các trấn ở Đàng Ngoài cũng được nói đến trong ĐNTLTB: "Bọn Phạm Hữu Lễ đều vâng mệng nói rằng: Hễ quân chúa qua sông Lam thì xin phát binh hưởng ứng, Hải Dương thì không nộp tô thuế để tuyệt lương. Cao Bằng thì tiến chiếm Đoàn thành để chia thế lực. . ." .

(4) Hằng Lãng: có lẽ là một tên khác của Hằng Sơn,tên nôm gọi là Rú Bụt ở xã Thường Nga, nay là xã Thượng Lộc, huyện Can Lộc tỉnh Nghệ Tĩnh.

(5) Bân Xá: tên xã thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Nghệ Tĩnh.

(6) Nguyên văn viết là "quy nghĩa tướng", cũng có nghĩa như trung nghĩa tướng, tức hàng tướng. Ở đoạn trên đã có nói đến Lưu Diên (không rõ họ) nhưng không nói rõ là hàng tướng. Như vậy có thể Lưu Diên là hàng tướng từ trước chiến dịch 1655.

(7) Cũng gọi 1à sông Minh Lương, con sông chảy qua bắc huyện Can Lộc (gần sông Nghèn).

(8) Mẫn Tường và Đằng Để: tên hai xã thuộc huyện Nghi Xuân.

(9) Tức là suốt buổi sáng, từ khoảng 5 giờ đến 11 giờ.

(10) Cương Mục không ghi việc Tường Trung chết trận, nhưng ĐNTLTB đại thể cũng chép như CNDC:"Văn Thiêm (quận Lũng) lui giữ xã Đằng Để; Hữu Dật đốc quân xung kích, bắn giết được tướng của Văn Thiêm là Tường Trung" .

(11) Tức giữa trưa.

(12) Chùa Thiên Tượng ở núi Thiên Tượng (một ngọn trong dãy Hồng Lĩnh).

(13) Ninh quận công: tên tước của Trịnh Tuyền (con thứ mười lăm của Thanh vương trịnh Tráng). ĐNTLTB chép là Trịnh Ninh, không chính xác, vì Ninh là tên tước chứ không phải tên thật.

(14) Chữ Tuyền đến đời Nguyễn vì kiêng húy đọc tránh là Toàn (đến nay vẫn quen đọc là Toàn). Toàn thư phiên là Trịnh Toàn cũng tức là người này.

(15) Viên quan văn làm đốc thị tương đương như tham mưu) cùng đi với Trịnh Tuyền trong cuộc hành quân cứu viện này, theo Toàn thư là Lê Đình Dự.

(16) Tên xã thuộc huyện Nghi Xuân, giáp giới với huyện La Sơn (Đức Thọ) và Thiên Lộc (Can Lộc).

(17) Thanh Bộc: tên xã thuộc huyện Thạch Hà, (sau gọi là Hương Bộc) gần thị xã Hà Tĩnh cũ.

(18) Đại Nài: tên xã phía bắc huyện Thạch Hà, gần Can Lộc.

(19) Nam Giai tức là Cửa Sót (nay thuộc huyện Thạch Hà); Cửa Đan Nhai tức Cửa Hội (nay thuộc huyện Nghi Lộc).

(20) Tên tước của Phan Hưng Tạo, sau được thăng tước 1à Thọ Lĩnh Bá.

(21) Tây Định: tức Tây Định Vương Trịnh Tạc; con thứ tư của Trịnh Tráng, được phong tước năm 1652 và nối ngôi chúa năm 1657.

(22) Bắc trấn: chỉ trấn Đông Bắc do nhà Mạc chiếm giữ.

(23) Đông trấn: tức trấn Hải Đông (nay là Hải Dương và một phần Hải Phòng).

(24) Tức hai trấn Sơn Tây và Sơn Nam.

(25) ĐNTLTB cũng có chép việc Văn Dụ vào gặp Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật: Bấy giờ lại có người ở Hải Dương là Văn Dụ, (không rõ họ) đến nói rằng: "Hào kiệt ở Hải Dương cũng cùng nổi dậy với hào kiệt ởSơn Tây, Sơn Nam, đợi quân chúa (Nguyễn) sang sông Lam sẽ tiếp ứng".

(26) Na Khố: tên xã thuộc huyện Cẩm Xuyên.

(27) Khám chiến: chưa rõ, có 1ẽ cũng làm chức tham mưu như đốc chiến song ở cấp bậc phối thuộc thấp hơn.

(28) Tức là khoảng từ 3 - 5 giờ sáng.

(29) Bản sao chép là "Tiếp Tài", có lẽ nhầm ở chữ "Tiếp". Viên tướng Nguyễn có mặt cho đến trận này là Phù Tài. Chúng tôi đính chính lại.

(30) Thị chiến: có 1ẽ cũng 1à quan chức thuộc nghạch tham mưu như đốc chiến (xem chú thích ở trên).

(31) ĐNTLTB chép 1à Văn Thuần (không rõ họ) cũng tức là nói về người này.

(32) Khoảng 1 - 3 giờ sáng.

(33) Bản sao chép là "Đan Nhai, Hội Thống nhị hải môn", chắc chép nhầm. Đúng ra cửa Đan Nhai ở xã Hội Thống.

(34) Bản sao ở trước chữ "kỳ" (cờ) chép một chữ không thành chữ gì có dáng như chữ "củ", đúng ra đây là chữ "đọat" (đoạt kỳ = cướp cờ). Cướp cờ chém tướng là nhóm từ thường dùng trong việc mô tả chiến trận.

(35) Giờ Tuất: khoảag từ 7 - 9 giờ tối.

(36) Quận Xuân chỉ huy thủy binh của quân Trịnh đóng ở Cửa Sót, trong trận này, ĐNTLTB chép tên là Xuân và chú là không rõ họ. Đoạn sau lại ghi một tướng khác: Lê Sĩ Hậu, Cương Mục chép đúng là Xuân quận công Lê Sĩ Hậu.

(37) ĐNTLTB chép "thuộc tướng của Trịnh ninh tên là Xuân (không rõ họ)".

(38) Nguyên văn: "hoành thuyền", chỉ chiến thuyền của quận Xuân Lê Sĩ Hậu bấy giờ dàn hàng ngang trên biển chặn đánh thuỷ quân của bên Nguyễn.

(39) Nguyên văn chép là "Độ Điềm", đọc theo âm Nôm là "Đò Điềm". Cương mục (Q. 32, 16a) chép là "Hoạt độ", tức là chép nhầm chữ "Điềm" ra chữ "Họat" (2 chữ có nửa bên phải giống nhau) và chú: "Hoạt độ, tên bến đò, nay không rõ ở đâu". CNDC chép "Đò Điềm" là chính xác; địa danh ấy đến nay vẫn còn, gọi là Đò Điềm hay Đò Điệm ở phí bắc huyện Thạch Hà, tỉnh Nghệ Tĩnh.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website TruyenConvert.NET
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK