Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Christopher Columbus nhận ra thời khắc quyết định đang đến gần. Suốt ba ngày qua, đội của ông đã phải lặn lội xuyên qua khu rừng rậm rạp của miền đất nhiệt đới này để tiến lên cao hơn. Đây là nơi đẹp nhất ông từng được thấy trong toàn bộ những hòn đảo ông đã phát hiện được kể từ lần cập bến đầu tiên vào tháng Mười năm 1492. Một dải đất bằng và hẹp bao bọc lấy bờ biển cằn cỗi. Các rặng núi nhấp nhô trong làn sương mờ, trải dài từ phía tây và hội tụ lại thành một dãy núi uốn khúc bao quanh nơi ông đang đứng, ở phía đông của hòn đảo. Mặt đất được cấu tạo hầu hết bởi những lớp đá vôi xốp được bao phủ dưới lớp đất đỏ màu mỡ. Hàng lớp cây non mọc chi chít bên dưới những tán lá dày đặc trong khu rừng già, được nuôi dưỡng bởi những luồng gió ẩm lưu chuyển quanh năm suốt tháng. Dân bản xứ gọi nơi này là Xaymaca, có nghĩa là “Hòn đảo của Suối Nguồn” – một tên gọi rất thích hợp, vì quanh đây khắp nơi đều có sông ngòi. Do ngôn ngữ miền Bắc Tây Ban Nha thay âm X thành âm J, ông quyết định gọi vùng này là Jamaica.

“Đô đốc.”

Ông dừng chân và quay lại nhìn một trong những thành viên trong đội.

“Không còn xa nữa đâu,” de Torres nói với ông, tay chỉ về phía trước. “Chỉ cần qua được đỉnh núi tới một khu đất phẳng rồi đi qua một khoảng rừng thưa nữa thôi."

Luis đã từng chung thuyền với ông trong cả ba chuyến du hành trước, tính cả lần vào năm 1492 khi họ đặt chân lên vùng đất này lần đầu tiên, đến mức cả hai đều đã hiểu và tin tưởng lẫn nhau.

Ông không dám chắc điều tương tự cho sáu người bản địa đang khiêng đống hàng hóa kia. Họ chỉ là một đám ăn lông ở lỗ. Ông ra hiệu cho hai người đang khuân những kiện hàng nhỏ hơn bảo họ nên cẩn thận hơn. Ông lấy làm ngạc nhiên vì sau hai năm các thùng gỗ vẫn còn khá tốt, chẳng có lấy một con mối nào kể từ khi thuyền cập bến vàonăm ngoái. Ông đã lưu lạc trên hòn đảo này đúng một năm ròng rã rồi.

Nhưng sự giam cầm này đã chấm dứt.

“Anh chọn nơi tốt đấy,” ông nói với de Torres bằng tiếng Tây Ban Nha.
Không một tên thổ dân nào có thể nói thứ tiếng này. Ba người Tây Ban Nha khác đi cùng ông và Torres, tất cả đều được tuyển chọn đặc biệt. Còn đám thổ dân kia đều bị dụ dỗ gia nhập với lời hứa hẹn sẽ được tặng cho những chiếc chuông đeo của chim ưng - một thứ trang sức rẻ tiền nhưng âm thanh của chúng có vẽ khiến bọn người thích thú - với điều kiện chúng phải thồ ba thùng hàng vượt núi như thế này.

Họ khởi hành từ lúc bình minh tại một khu rừng rậm rạp cạnh gần bờ biển phía bắc. Một dòng sông gần đó với dòng nước óng ánh, mát lạnh, chảy xuôi xuống những ghềnh đá trơn láng, tạo nên những hồ nước nối tiếp nhau rồi hóa thành một dải lụa bạc đổ ra biển lớn. Tiếng côn trùng râm ran và tiếng chim ríu rít càng lúc càng lớn, nghe như một bản hòa tấu trong một khán phòng vĩ đại.
Đoạn đường rừng cheo leo hiểm trở khiến họ mệt nhoài, quần áo họ đẫm mồ hôi và gương mặt lấm tấm bụi bẩn. Lúc này họ bắt đầu đọan xuống dốc, tiến vào một thung lũng xanh um.

Lần đầu tiên trong một quãng thời gian dài, ông cảm thấy như trẻ lại.

Ông yêu mảnh đất này.

Chuyến hải hành đầu tiên vào năm 1492 được tiến hành dưới sự chỉ huy của cá nhân ông, đi ngược lại lời khuyên từ những miệng những kẻ thuộc "tầng lớp trí thức." Tám mươi bảy người đã dám mạo hiểm dấn thân vào miền đất lạ, ý chí của họ được củng cố chỉ bởi giấc mơ vĩ đại của ông. Trong nhiều thập kỷ ông đã lăn lộn khắp chốn để gây quỹ cho chuyến đi, đầu tiên là từ bọn Bồ Đào Nha, sau đó đến Tây Ban Nha. Hiệp ước Santa Fe, ký giữa ông và hoàng gia Tây Ban Nha, đã hứa sẽ trao cho ông danh hiệu quý tộc cùng mười phần trăm lợi nhuận và toàn quyền kiểm soát vùng lãnh hải ông phát hiện được. Một sự thỏa thuận vô cùng béo bở trên giấy tờ, nhưng Ferdinand và Isabella (1) đã không giữ trọn lời hứa. Trong mười hai năm qua, sau khi ông công bố sự tồn tại của Tân Thế Giới, từng đoàn thuyền Tây Ban Nha lũ lượt nối đuôi nhau vượt biển về hướng Tây mà không hề có sự cho phép của ông dưới chức danh Đô đốc Đại Dương.

Lũ khốn nạn. Phường bốc phét.

Cả đám bọn chúng.

“Tới rồi,” de Torres gọi lớn.

Ông tạm dừng chuyến đổ dốc và nhìn xuyên qua rặng cây, vượt qua hàng nghìn đóa hoa đỏ được thổ dân gọi là Ngọn lửa của Rừng Già. Ông trông thấy một hồ nước trong vắt, phẳng như gương, và nghe được tiếng gầm thét của nhiều dòng thủy lưu chảy ra vào liên tục.

Lần đầu ông tới Jamaica là vào tháng Năm năm 1494, trong chuyến du hành lần thứ hai, và phát hiện ra rằng bờ biển phía Bắc cũng là nơi định cư của một bộ tộc sinh sống ở những hòn đảo lân cận, ngoại trừ việc họ ít thân thiện hơn hẳn. Tính hung hăng này có lẽ bị lây từ bộ tộc Caribs sống ở phía đông, trên vùng đảo Puerto Rico. Tộc Caribs là bộ tộc ăn thịt người dữ tơn chỉ biết đến mỗi bạo lực. Vốn đã có kinh nghiệm xương máu, ông bèn thả đám chó săn và đội cung thủ đi tiên phong để đối phó với bọn thổ dân, giết chết được vài tên và làm một số lớn khác bị thương nặng, khiến bọn chúng sợ hãi.
Ông cho đoàn xe tạm nghỉ bên bờ hồ.

De Torres đến gần và thì thầm, “Đến rồi. Địa điểm ấy.”

Ông biết đây sẽ là lần cuối cùng ông đặt chân lên Tân Thế Giới. Năm nay ông năm mươi mốt tuổi và đã gây thù chuốc oán khá nhiều. Bằng chứng là những gì ông đã phải trải qua, nhất là lần giong buồm lần thứ tư của ông đã bị nguyền rủa ngay từ lúc đầu. Ông là người đầu tiên khám phá ra dải bờ biển mà ông nghĩ thuộc về một lục địa. Bờ biển trải dài bất tận từ Nam chí Bắc dọc theo tòan bộ hải trình của ông. Sau khi hoàn tất chuyến thăm dò, ông đã mong rằng đoàn sẽ cập bến tại Cuba hoặc Hispaniola (2), nhưng đoàn thuyền bị mối gặm chỉ cho phép ông đến được Jamaica, nơi ông tống cả thuyền lẫn mọt lên bờ và chờ đợi sự cứu trợ.
Chẳng có ma nào đến.

Chính quyền đảo Hispaniola, kẻ thù không đội trời chung của ông, quyết định để ông và một trăm mười ba người khác chết rục.

Nhưng điều đó đã không xảy ra.

Một vài người dũng cảm đã dùng xuồng nhỏ chèo ngược về Hispaniola và mang về một chiếc thuyền.

Đúng, quả thật ông có rất nhiều kẻ thù.

Chúng đã thành công loại bỏ tất cả những quyền lợi mà ông có được từ bàn hiệp ước. Ông vẫn giữ được danh hiệu quý tộc và chức vụ Đô đốc, nhưng ngay cả chúng đã không còn ý nghĩa gì nữa. Những tên thực dân ở Santo Domingo còn trở mặt và ép ông phải ký tờ đơn cho phép bọn chúng được định cư trên đảo. Bốn năm trước đây, ông được trả về Tây Ban Nha trong cảnh xiềng xích với những lời đe dọa rằng ông sẽ phải ra tòa và bị tống vào ngục. Nhưng đức vua và hoàng hậu đã bất ngờ ban cho ông lệnh ân xá, rồi ban cho ông tài trợ và giấy phép thông hành cho lần ra biển thứ tư.

Ông tự hỏi không biết điều gì đã thúc đẩy họ làm thế.

Isabella trông chân thành nhất. Bà luôn có một tâm hồn ưa phiêu lưu mạo hiểm. Nhưng đức vua lại là cả một vấn đề khác. Ferdinand chưa bao giờ quan tâm đến ông, và còn thẳng thắn nói rằng bất cứ chuyến vượt Đại Tây Dương nào cũng là những hành động điên rồ

Tất nhiên, đó là chuyện trước khi ông thành công.

Giờ thì Ferdinand chỉ muốn vàng và bạc.

Lũ tham lam. Phường bốc phét.

Cả lũ bọn chúng.

Ông ra hiệu cho những thùng gỗ được hạ xuống. Ba người trong đội ông phải đến giúp do chúng khá nặng.

“Chúng ta tới rồi,” ông gọi lớn bằng tiếng Tây Ban Nha.

Người của ông liền biết phải làm gì.

Họ tuốt gươm ra và thẳng tay tàn sát bọn thổ dân. Hai tên vẫn còn rên rỉ trên mặt đất, nhưng sớm bị bịt miệng bằng cú đâm thẳng vào ngực. Cái chết của mấy tên này chẳng có nghĩa lý gì đối với ông, vốn bọn chúng không xứng đáng được thở cùng bầu không khí với người Châu Âu. Chúng là lũ tí hon, với nước da ngăm đen và ăn ở trần truồng như lúc chúng vừa được sinh ra, không hề biết đến chữ viết và chẳng có một đức tin nào. Chúng sống trong những ngôi làng ven biển và ông quan sát được rằng chúng chẳng làm nên tích sự gì ngoài việc trồng trọt sơ đẳng. Thủ lĩnh của bọn chúng là một tên gọi là cacique (3), kẻ mà ông đã kết bạn trong những ngày lưu lạc. Tên thủ lãnh này đã giao cho ông sáu người vào hôm trước khi ông thả neo lần cuối cùng dọc theo bờ biển phía bắc.

"Chỉ vài ngày đi xe mà thôi," ông nói với gã tù trưởng.

Ông có đủ vốn hiểu biết về thứ ngôn ngữ Arawak của chúng để có thể đưa ra lời thỉnh cầu. Tên tộc trưởng đã bày tỏ sự chấp thuận, điều ra sáu tên thổ dân để khuân vác thùng hàng. Ông cúi chào để biểu thị lòng thành kính và đưa ra hàng tá chuông diều hâu làm quà biếu. Tạ ơn Chúa là ông đã mang theo nhiều chuông như vậy. Ở Châu Âu người ta buộc chúng vào vuốt để huấn luyện chim ưng. Một đồ vật vô giá trị, nhưng tại đây chúng lại đươc xem như một thứ tiền tệ có giá trị.

Tộc trưởng tiếp nhận quà biếu và cúi người để tỏ lòng biết ơn.

Ông đã giao dịch với tên đầu lĩnh này hai lần và đã tạo nên một tình hữu nghị giữa hai người. Và ông đã lợi dụng triệt để mối quan hệ bạn bè này.

Khi ông tạm dừng ở hòn đảo lần đầu vào năm 1494 để vá những lỗ thủng trên thuyền và bổ sung nước ngọt, người của ông phát hiện những miểng vàng nhỏ dưới đáy dòng nước trong. Sau một hồi hỏi han, tên tộc trưởng còn cho ông biết được một nơi mà những mảnh vàng còn lớn hơn vào cỡ một hạt đậu.

Tại chính nơi ông đang đứng bây giờ.

Nhưng không giống với bọn hoàng gia Tây Ban Nha nham hiểm, ông chẳng hề hứng thú với số vàng này.

Mục đích của ông thâm sâu hơn nhiều.

Ông dời ánh nhìn sang de Torres, và người bạn già của ông hiểu được phải làm gì tiếp theo. De Torres liền chĩa gươm vào một trong ba người Tây Ban Nha đồng hành, một gã đàn ông có vóc dáng nhỏ thó, mập mạp với mái tóc hoa râm.

“Quỳ xuống,” de Torres ra lệnh khi y tước vũ khí của gã đàn ông nọ.

Hai người còn lại cũng chĩa kiếm vào gã đó.

Hắn đành phải quỳ xuống.

Columbus nhìn thẳng vào mặt hắn, nói “Ngươi tưởng ta ngu lắm sao?”

“Đô đốc –”

Ông khoát tay chặn lời hắn. “Bốn năm trước chúng tống ta về Tây Ban Nha trong gông cùm và lột bỏ mọi quyền lợi của ta. Rồi đột nhiên mọi thứ đều được phục hồi.” Ông tạm ngưng. “Chỉ với vài tiếng, đức vua và hoàng hậu đã tha thứ cho mọi tội lỗi ta bị gán ghép cho. Chẳng lẽ họ nghĩ ta dốt nát lắm sao?” Ông lại ngập ngừng. “Họ dám nghĩ thế thật, và đó là sự lăng mạ ghê gớm nhất ta phải chịu đựng. Trong nhiều năm trời chẳng ai thèm cho ta lấy một cắc làm kinh phí. Vậy mà chỉ với một lá thư gửi đến Hoàng tộc, ta đã được ban cho đủ tiền cho lần hải hành thứ tư. Chỉ một lời đề nghị mà tất cả mọi thứ đều được cung cấp đầy đủ. Ta nghi chắc chuyện này có vấn đề.”
Gươm kề sát cổ hắn khiến hắn chẳng chạy đâu được.

“Chính ngươi là gián điệp,” Columbus nói. “Ngươi được phái đến đây để báo cáo mọi hành động của ta.”

Ánh mắt của tên khốn nạn này khiến ông ghê tởm. Tên này là đại diện cho toàn bộ sự phản bội và cảnh cùng cực mà ông phải gánh chịu dưới chính quyền của lũ Tây Ban Nha dối trá.

“Nói ta nghe những gì chủ nhân của ngươi muốn biết,” Columbus ra lệnh.
Gã đó im lặng.

“Nói!” Ông cất cao giọng. “Ta ra lệnh cho ngươi.”

“Ông có tư cách gì để ra lệnh?” tên gián điệp cất tiếng. “Ông không phải là một con chiên của Chúa.”

Ông tiếp nhận câu sỉ vả với sự kiên nhẫn đã được trui rèn tử một quãng đời khó nhọc. Nhưng ông nhận ra rằng những người anh em của ông không dễ tha thứ như thế.

Ông chỉ vào họ. “Bọn họ cũng chẳng phải con chiên của Chúa.”

Tên gián điệp nhổ tọet xuống đất.

“Nhiệm vụ của ngươi là báo cáo lại toàn bộ những gì diễn ra trong chuyến đi này? Có phải những thùng hàng này là đích nhắm của chúng? Hay chúng chỉ muốn vàng thôi?”

“Ngươi là một kẻ dối trá.”

Columbus cười khẩy. “Ta lại đi nói láo à?”

“Giáo hội sẽ chứng kiến sự trừng phạt của ngươi trong ngọn lửa địa ngục vĩnh hằng.”

Ông chợt nhận ra. Tên gián điệp này là người của Tòa án dị giáo.

Kẻ thù lớn nhất của ông.

Tính cảnh giác của ông chợt bùng lên. Ông nhận ra nét lo âu trong đôi mắt của de Torres. Ông đã biết rõ điều này từ hai năm trước, khi họ phải rời bỏ Tây Ban Nha chỉ vì mối đe dọa này. Nhưng liệu số lượng tai mắt theo dõi ông có tăng lên không? Số nạn nhân bị thiêu sống bởi Tòa án dị giáo tới giờ đã lên đến hàng ngàn, khiến ông căm ghét mọi thứ liên quan đến cái tòa án đó.

Những gì ông đang cố hoàn thành tại nơi đây đều nhằm mục đích cản trở chuỗi hành động tàn ác đó.

De Torres từng khuyên ông chớ nên bị phát giác bởi những tay thẩm tra người Tây Ban Nha, nếu không ông đừng mong trở về châu Âu. Ông định giong buồm đến Cuba, một hòn đảo lớn hơn ở phương Bắc. Hai người đang cầm gươm khác có niên kỷ trẻ hơn và sở hữu nhiều tham vọng hơn, đã tự ý quyết định ở lại. Có lẽ ông cũng nên thế, nhưng ông không thuộc về nơi đó; mặc dù ông ước rằng mọi việc có thể xảy ra theo chiều hướng khác.

Ông liếc xuống.

“Người Anh và Hà Lan gọi ta là Columbus, còn trong tiếng Pháp là Columb, và Colom trong tiếng Bồ Đào Nha. Những người Tây Ban Nha biết đến ta bằng cái tên Colón. Nhưng chúng đều không phải là tên gốc của ta. Tiếc rằng ngươi sẽ không bao giờ biết được sự thật và nhiệm vụ báo cáo cho đám chủ nhân đang hóng tin của ngươi tại Tây Ban Nha sẽ chấm dứt tại đây.”

Ông ra hiệu, và de Torres cắm ngập gươm vào ngực hắn.

Tên gián điệp chẳng kịp phản ứng.

Lưỡi gươm được rút ra, mang theo thứ âm thanh rợn người. Cái xác gục về phía trước trong tư thế quỳ, khuôn mặt đập mạnh xuống mặt đất.

Một vũng máu lan ra.

Columbus và những người khác nhổ nước bọt lên cái xác.

Ông mong rằng đây sẽ là cái chết cuối cùng ông phải chứng kiến. Ông đã mệt mỏi với việc giết chóc. Tên tù trưởng cũng sẽ chẳng làm gì được ông về cái chết của sáu tộc nhân của hắn vì ông sẽ sớm giong thuyền rời khỏi mảnh đất này mãi mãi. Những kẻ đến sau sẽ phải thay ông chịu trách nhiệm, nhưng ông cóc quan tâm. Trong mắt ông phe nào cũng là kẻ thù, và ông mong chúng phải gánh chịu những điều thảm khốc nhất.

Ông quay lại và giương mắt ngắm nhìn chỗ ông đang đứng, tìm kiếm từng chi tiết đã được miêu tả.

“Anh thấy đấy, Đô đốc,” de Torres nói. “Cứ như thể Chúa đã dẫn chúng ta tới đây.”

Ông bạn già của ông nói đúng.

Chuyến đi đã diễn ra hệt như thế.

Hãy gan dạ như báo, nhẹ nhàng như đại bàng, nhanh nhạy như hươu nai, và dũng mãnh như sư tử để thi hành sứ mệnh của Cha trên thiên đàng.

Những lời khôn ngoan.

“Nào,” ông nói với những người còn lại. “Hãy cùng cầu nguyện rằng bí mật ngày hôm nay sẽ được giữ kín lâu dài.”
Chương trình ủng hộ thương hiệu Việt của Tàng Thư Viện:

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website TruyenConvert.NET
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK
Chương trước
Chương trước
Chương sau
Chương sau
Về đầu trang
Về đầu trang