Người làng Lương Xá kháo nhau :
- Ông Trần Kiện vừa đón được một ông thầy địa lý có vẻ tiên phong đạo cốt ghê.
- Thảo nào ! Tôi thấy nhà ông ta có khách, đãi đằng trọng vọng lắm.
- Phải rồi, tu nhân tích đức như ông ta, giời có thí bỏ cho một ngôi đất tốt cũng là xứng đáng.
Họ yên trí về chuyện mồ mả đất cát nên không một chút hoài nghi khi thấy bốn người, cả chủ lẫn khách, đều say mê nghiên cứu thuật phong thủy ở ngoài trời.
Từ sáng sớm tinh sương cho đến tối mịt, bốn người cưỡi bốn con ngựa khoẻ đi dạo khắp nơi khắp chốn trong vùng. Hết Lương Xá đến Quảng Bị, Tụy Động. Xa hơn nữa, đến Chúc Sơn, rồi đến Phượng Hoàng Sơn.
Vị quân sư họ Nguyễn có vẻ hài lòng sau khi đã có một cái nhìn tổng quát về khu vực mà ông đã lựa chọn.
Tối đến, ngồi bên mâm rượu trong thư phòng biệt tịch, ông nâng chén tâm sự với chủ nhà :
- Bình Định Vương khởi nghĩa ở Lam Sơn từ mùa xuân năm mậu tuất [1]. Bây giờ còn mấy tháng nữa là hết năm bính ngọ [2]. Tính ra đã được chín năm. Và phần thắng lợi đã nghiêng hẳn về ta.
“Trước thanh thế lẫy lừng của quân ta, vua nhà Minh đã phải thay tướng thêm binh nhưng tựu chung quân thế của chúng chỉ còn ở trong mấy cái thành bị vây mà thôi.
“Đó là nói ở mạn trong, thành Nghệ An và thành Tây Đô bị ta vây đánh rất gấp.
“Nhưng còn ở mạn ngoài, chúng có đến mười vạn ở quanh thành Đông Quan, đồn lũy đóng liên tiếp dài mấy chục dặm từ Thạch Thất cho đến Từ Liêm, Thanh Oai.
“Ý tôi muốn diệt gọn mấy vạn tinh binh này trong một trận thật khốc liệt.
“Đánh thắng xong trận quyết định này, ta sẽ hạ các thành bị vây một cách dễ dàng. Và công đại định ở ngay tầm tay với. Ý ông nghĩ sao ?
Trần Kiện hăng hái đáp :
- Dân chúng cũng mong ước như vậy lắm. Ai cũng muốn đánh những trận thật to, thật quyết liệt cho nó xong đi. Xong thì dân tình mới đỡ khổ. Nhưng…
- Ông ngại điều gì ? Sợ quân ta ít chăng ?
- Vâng. Tôi ngại quân ta quá ít. Quân sư có thể cho biết…
Nguyễn Trãi ngắt lời :
- Tôi trọng ông như các tướng tâm phúc của Bình Định Vương nên không có điều gì phải giấu diếm.
“Hiện giờ quân của Vương Thông dàn ra ở ba phía, phía tây, phía tây nam và phía nam thành Đông Quan. Để cự với ba đạo quân ấy, tôi nhờ ba ông Lý Triện, Đinh Lễ và Nguyễn Xí, mỗi ông có một nghìn quân.
- Một nghìn quân thật là quá ít so với mười vạn tinh binh của giặc. Tuy nhiên, nếu quân sư có lòng tin sai tôi cầm số quân nhỏ nhoi ấy đánh bất cứ đạo quân Tầu nào, tôi cũng xin liều chết lĩnh mệnh. Nhưng nếu quân sư buộc phải tiêu diệt mười vạn quân giặc thì tôi xin thú thật không tài nào đương nổi.
Vỗ vai người tráng sĩ họ Trần, Nguyễn Trãi nói cười hỉ hả :
- Lực lượng hai bên quá chênh lệch, một mình ta không đủ sức quật ngã được chúng thì ta mượn thêm quân chứ có gì là khó.
Trần Kiện ngạc nhiên :
- Thưa, mượn thêm quân ?
- Phải.
- Tôi ngại…
Họ Nguyễn xua tay gạt phắt đi :
- Không có gì đáng ngại đâu, ông Trần. Tôi thân hành đến đây không ngoài mục đích nhờ ông giúp cho một tay trong việc mượn binh đó. Rồi đây ông sẽ hiểu.
Tuy không mấy tin tưởng ở kế cầu viện, họ Trần cũng gượng cười đáp :
- Vâng. Lúc nào tôi cũng sẵn sàng tuân theo những lời chỉ giáo của quân sư.
Trải một tờ giấy bản rộng lên trên văn kỷ, Ức Trai tiên sinh chậm rãi vẻ ra một tấm bản đồ, ngòi bút lông bay lượn đến đâu, ông cắt nghĩa đến đấy.
- Đây là địa thế toàn thể khu vực chúng ta đã quan sát ngày hôm nay.
“Phía bắc có con sông Cái chắn ngang, nước đổ về Đông Đô ở phía đông, mạnh như thác.
“Sông này có hai nhánh cách nhau mấy chục dặm, chạy song song về phía nam. Nhánh bên tả là con sông Đáy chạy tuốt xuống phía nam huyện Mỹ Lương ta và gặp con sông Bùi ở ngã ba Thá.
“Nhánh bên hữu chạy dọc vùng Phượng Hoàng Sơn đến con đường này. Đây chính là con đường cái chạy thẳng về thành Đông Quan qua bến đò Tích Giang trên con sông Bùi và bến đò Mai Lĩnh trên con sông Đáy.
“Ông Trần nhìn kỹ xem có phải khu vực vừa vẽ đây giống y như một cái túi hình chữ nhật mà ba cạnh là sông và một cạnh là đường bộ không nào ?
“Nói cho rõ ràng hơn thì mặt bắc khu vực này là sông Cái, mặt đông là sông Đáy, mặt tây là một nhánh sông Nhị Hà. Duy có mặt nam là con đường cái quan chạy từ bến đò Tích Giang đến bến đò Mai Lĩnh.
- Vâng vâng, tôi thấy rồi, Phượng Hoàng Sơn và Chúc Động thuộc địa phận huyện Chương Đức đều nằm gọn trong cái túi rộng nhớn này.
- Chính thế. Còn một cái túi nữa, nhỏ hơn, ở phía nam đường cái.
Trần Kiện vỗ tay reo, mắt sáng lên :
- Vâng vâng. Mặt bắc túi nhỏ này vẫn là con đường cái quan lúc nãy. Mặt đông và mặt nam là sông Đáy, mặt tây là sông Bùi. Hai con sông này gặp nhau ở ngã ba Thá. Đây là khu vực của tôi, tôi thuộc rất rành, thưa quân sư. Làng Lương Xá tôi đây cũng như các làng Quảng Bị, Tụy Động kế bên thuộc huyện Mỹ Lương đều nằm gọn trong cái túi thứ hai này.
Vị quân sư họ Nguyễn nâng chén, uống một hớp rượu, khà một tiếng khoan khoái trước khi phê phán :
- Điều đáng chú ý là đất cả hai nơi đều rất thấp.
- Dạ dạ. Là vì ở đây toàn ruộng chiêm. Đất ở Lương Xá chúng tôi còn thấp hơn ở Chúc Sơn nhiều đó, thưa quân sư.
- Vâng, tôi thấy. Và tất cả bốn chúng ta đều đã thấy. Vậy bây giờ tôi hỏi ba ông câu này nhé : “Ta nên lùa mười vạn quân Tầu vào cái túi nào ? Túi nhớn ở trên hay túi nhỏ ở dưới ?”
Lương hữu Trí lên tiếng trước tiên :
- Túi nhớn ở trên e quá rộng, mà quân ta thì quá ít. Sợ đối phó không nổi.
Lý đại Lực tiếp lời, giọng áy náy :
- Còn cái túi nhỏ ở dưới, tôi lại e quá hẹp. Quân giặc lại quá đông. Chúng nó lấy thịt đè người, mình chết bẹp, hết chỗ cựa quậy !...
Trầm ngâm một lúc lâu, Trần Kiện mới dè dặt góp ý :
- Theo ý ngu của tôi thì túi nhỏ tiện hơn. Có điều ta phải thêm quân…
Nguyễn Trãi vỗ đùi reo :
- Đúng đấy. Viện binh bao nhiêu cũng có. Ở cả trong tay chúng ta, hay nói rõ hơn, ở trong tay ông Trần chứ đâu xa !
Trước sự ngạc nhiên của ba người đối thoại, họ Nguyễn đột ngột bắt sang chuyện đời xưa ;
- Ba ông có nhớ, trong truyện Tam Quốc, cái khúc Quan Vũ tháo nước sông Tương bắt Vu Cấm và Bàng Đức không ?
Ba nguời nghe cùng tỉnh ngộ. Hữu Trí gật gù buông mấy tiếng :
- Dạ có. Trận đó kêu là “Vu nhập Khoái khẩu.” Đúng là Cá vào miệng Đó !
Đại Lực ngó tấm bản đồ, lẩm nhẩm :
- Hai khu vực này quả thực là hai cái đó. Cái đó nhỏ cũng rộng rãi hơn cái đó của Quan Công nhiều.
Trần Kiện tiếp lời, giọng gượng gạo lúc nãy đã đổi sang giọng vô cùng tin tưởng :
- Bây giờ tôi mới vỡ lẽ. Thì ra viện binh quân sư nói vừa rồi là nước hai con sông, sông Bùi và sông Đáy. Phải rồi, binh thư đã chỉ rành rành : Sức quân không đủ thì mượn sức lửa, sức nước thế vào.
Hạ thấp giọng, Nguyễn Trãi dặn :
- Mẹo này ta phải giữ cho thật kín. Hơi lộ ra một tí là hỏng việc đấy. Chúng nó sinh nghi không dám chui đầu vào trong thì mẹo ta hết đường thi thố. Và quân ta sẽ lâm vào thế yếu.
Lời dặn dò của Ức Trai tiên sinh mỗi lúc một nhỏ dần. Chỉ một mình Trần Kiện ngồi ngay bên cạnh mới nghe được hết, còn Hữu Trí và Đại Lực ngồi mé dưới dù có lắng tai cũng chỉ nghe lõm bõm được từng khúc rời rạc :
- … Vào rừng, chặt tre, đan thuyền thúng… Thật nhiều bao cát… Đưa dân đi… Giấu hết thóc lúa… Tên bắn bao nhiêu cũng có…
Giọng nói dần dần trở lại mức bình thường :
- Ấy đó, những việc khác tôi giao cho các ông Đinh, Nguyễn, Lý được, nhưng những việc vừa rồi tôi phải sở cậy vào ông. Ngoài ông ra, không ai làm được vì ông là người duy nhất có đầy đủ uy tín ở địa phương này.
Trần Kiện khẳng khái nhận lời :
- Vâng. Quân sư đã giao phó cho tôi việc hệ trọng, tôi xin cố hết sức làm cho tròn để khỏi phụ lòng tin cậy của quân sư.
“Nói cho ngay, việc cũng chẳng lấy gì làm khó khăn lắm. Các vị trưởng thượng mấy làng quanh đây đều có giao tình với tôi rất hậu. Tôi bầy tỏ các nhẽ lợi hại, chắc họ nghe ra ngay. Còn bọn trai tráng, phần nhớn là học trò của tôi, tôi sai bảo được. Cả đến lũ trẻ nhỏ bằng trạc tuổi thằng cháu…
- Quý hoá lắm đấy, ông Trần. Chiều hôm qua, tôi đã thấy các cậu ấy nô đùa và diễn võ. Đánh lộn khoẻ như trâu và bơi lội tài như cá. Các cậu ấy sẽ được việc vô cùng…
Tiệc tàn. Chủ khách ra tràng kỷ ngồi ăn trầu, hút thuốc, đợi cho người nhà lên triệt [3] bát đĩa xong mới nối tiếp câu chuyện dở dang.
Trần Kiện tần ngần thấy những điều cần nói thật là khó nói :
- Tôi sợ không dụ nổi đại quân Minh đâu, thưa quân sư. Chỉ ngại bẫy giương ra thật to tát cốt bắt sống cả một đàn cọp mà rồi rút cục chỉ tóm được một vài chú thỏ quèn, đã chẳng bõ công mà còn hại lây đến bách tính [4] nữa.
Hữu Trí cũng đánh bạo tiếp lời :
- Đúng thế. Tôi cũng lo điều ấy. Nhất là bên kia vẫn còn tên Trần Hiệp làm Tham tán quân vụ. Nó là một con cáo già ở nước ta đã lâu, thông thuộc cả thiên thời, địa thế, nhân tình nước mình, lừa được nó không phải là chuyện dễ. Cứ xem như cái vụ các tên Trần Trí và Phương Chính bị cách tuốt hết cả chức tước mà tên Trần Hiệp không hề hấn gì thì đủ rõ. Nó là bộ óc của quân Minh, quân sư chớ nên coi thường.
Đặt chiếc xe điếu xuống án thư, vị nhà nho ngửa cổ nhả từng ngụm khói lên thượng lương [5] với một vẻ khoan khoái khác thường trước khi chậm rãi buông ra một câu thật bất ngờ :
- Mẹo tôi bầy ra chỉ cốt để đánh lừa tên Trần Hiệp.
Không để cho người nghe kịp ngạc nhiên, ông nói tiếp :
- Trong các cuộc tranh hùng, lợi hại nhất là đấu trí. Cái trò này biến ảo khôn lường, sơ sẩy một chút là không xong. Lại còn phải tùy người đối địch với mình mà lập mưu. Là vì có những cái mẹo chỉ đánh lừa được mấy kẻ tầm thường chứ không qua mặt nổi người tài giỏi. Ngược lại, có những kế gạt được những tay thao lược nhưng vô hiệu đối với bọn lục lục thường tài.
“Nói ngay chuyện Tam Quốc cho vui và dễ hiểu. Như vụ Khổng Minh đốt lửa ở đường hẹp Hoa Dung để dụ Tào Tháo. Tên gian hùng này vì quá thông minh và quá thuộc binh thư, quá thuộc binh pháp nên mới chui đầu vào bẫy rập.
“Mẹo nhỏ của tôi cũng vậy. Những tên bất tài mới đánh hơi thấy đã vội lảng xa, nhưng Trần Hiệp là một tay túc trí đa mưu sẽ đâm đầu vào tròng. Rồi các ông xem, tôi tính không sai đâu…
Nhắp chén trà ướp ngâu thơm ngát, ông kết thúc câu chuyện :
- Nói tóm lại, tôi nhờ ông Trần lĩnh giùm công việc đan một cái đó cho thật chắc chắn. Còn việc lùa cá vào đó cho đầy, để chúng tôi lo. Lâm sự, nếu cá không chịu vào trong đó thì lỗi ở chúng tôi. Nhược bằng cá có vào mà lọt đi mất vì đó đan không khít thì trách nhiệm nơi ông Trần. Có phải thế không ạ ?
Trần Kiện hăng hái đáp :
- Quân sư dạy chí lý. Việc của tôi, tôi xin lo nội trong ba hôm là chu tất.
Đêm khuya, Nguyễn Trãi nằm trằn trọc nhớ đến quê nhà, làng Nhị Khê, cách đó chẳng bao xa mà không về thăm được. Trong khi ấy, ba người kia thao thức tự hỏi không biết ông quân sư tài ba của họ làm cách nào dụ được một con thịt kếch sù bằng một miếng mồi nhỏ xíu.
__
1. Mậu tuất : 1418.
2. Bính ngọ : 1426.
3. Triệt : thu dọn hết.
4. Bách tính : trăm họ, toàn dân.
5. Thượng lương : cây xà chính ở nóc nhà (kiến trúc xưa).
Danh Sách Chương:
Bạn đang đọc truyện trên website TruyenConvert.NET
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK