Tần Phóng thuê một chiếc xe ở Quý Dương, chạy một mạch theo hướng Đông Nam đến địa chỉ mà quan chủ Thương Hồng đưa cho. Ban đầu là chạy qua đường phố sầm uất, sau khi qua khỏi thành phố Khải Lý lúc chính thức bước vào châu tự trị Kiềm Đông Nam của dân tộc Miêu, dân tộc Động thì trở thành đường núi ngoằn ngoèo. Hai bên núi cao sừng sững, rừng cây dày đặc, làng bản phân bố không theo quy luật. Có đôi khi chạy một đoạn sẽ bất chợt thấy được dòng sông hợp lưu từ các con suối trong khe núi. Men theo dòng sông từ dưới lên trên là lớp lớp nhà sàn người Miêu, có điều số lượng nhiều nhất chỉ vài chục hộ.
Thiên Hộ Miêu Trại quả là tên như ý nghĩa, là một khu bản làng lớn của người Miêu. Tần Phóng tưởng tượng hình ảnh một hai nghìn ngôi nhà sàn san sát trải khắp cả núi đồi, anh cảm thấy hơi khó thở vì cảnh đông đúc kinh khiếp như thế.
Đi được nửa chừng mưa ào ạt đổ xuống, tục ngữ nói “Quý Châu không có được ba ngày trời trong” rốt cuộc đều có căn cứ. Tư Đằng quay cửa sổ xe xuống phân nửa, cô nói: “Núi ở đây trái lại rất giống Thanh Thành.”
Tần Phóng liếc nhìn cô qua kiếng chiếu hậu: “Cô còn có tâm trạng ngắm cảnh à?”
Tư Đằng không nhìn anh, cánh tay khoác lên cửa sổ xe, hai bên tóc mai lòa xòa bị gió thổi bay phấp phới: “Sao cậu nói vậy?”
“Cô không có yêu lực lại dám nghênh ngang đến Kiềm Đông, người đạo môn đến trước chúng ta, cũng không biết bọn họ đã bày kế gì đợi cô phía trước nữa kìa. Không biết cô cảm giác thế nào, dù sao tôi càng lúc càng thấy không an toàn. Nói chuyện, làm việc càng ngày càng dè dặt, sợ vừa không để ý một cái là sẽ bị bắt được sơ hở. Họ đông người như thế, giết chúng ta ở nơi rừng núi hoang vắng thế này rồi tìm một chỗ chôn giấu thật quá dễ dàng… Chết không rõ ràng như vậy, thử nghĩ thôi cũng thấy quá ngột ngạt rồi.”
“Cậu ngột ngạt cái gì, có thể chôn bên cạnh tôi cũng là phúc ba đời nhà cậu rồi.”
Có cần da mặt dày thế không? Cô là long mạch à? Tôi muốn chôn bên cạnh cô lắm sao? Tần Phóng bị nghẹn họng rất lâu không nói nên lời, cuối cùng nghiến răng nghiến lợi nói: “Cám ơn nhé, tôi thật sự rất vinh hạnh đó.”
“Đừng khách sáo.”
Thẩm Ngân Đăng ở bản người Miêu, phát âm theo tiếng địa phương là Rongbang tạm gọi là Dung Bảng, quy mô chừng hai ba nghìn hộ, vượt xa bản Thiên Hộ tại Tây Giang vốn được quy hoạch thành khu du lịch. Bản được xây dựng men theo vách núi, xe không thể chạy lên. Mà đường núi nhỏ hẹp còn lởm chởm đầy đá.
Tần Phóng để Tư Đằng ở trên xe, bản thân đi lên tìm chỗ ở trước. Tuy Dung Bảng chưa được khai phá quy mô lớn, nhưng thông tin được chia sẻ rộng rãi, có một người đến thì sẽ truyền đến hai người, tiếp theo là đến hằng trăm người. Nơi đây đã được khai phá như thời kỳ đầu của trấn cổ Ô Trấn nổi tiếng tại Lệ Giang, khách sạn cửa hàng đều đơn sơ. Tần Phóng nhanh chóng tìm được một khách sạn gia đình khá tốt, nói rõ muốn bao trọn gói. Nhưng chủ khách sạn rất thành thật, nói bây giờ đang mùa ế khách, mười ngày nửa tháng đều không có ai đến, không cần phải bao các người cứ vào ở là được.
Sau khi vào ở, Tần Phóng gọi điện thoại cho quan chủ Thương Hồng. Đầu tiên là sóng không tốt, không gọi được, vất vả lắm mới liên lạc được với bên kia thì tiếng nói nghe rè rè, quan chủ Thương Hồng thở hổn hển nói: “Chúng tôi đi theo Thẩm tiểu thư, mang pháp khí dò la vùng lân cận chỗ cô ấy gặp Xích Tán để tìm sào huyệt của nó… Sau khi trở về sẽ tìm tiểu thư Tư Đằng bàn bạc.”
Quan chủ Thương Hồng cúp điện thoại, trên trán đầm đìa mồ hôi. Ông ta đưa tay lau, đi về phía trước hai bước: Phía trước là vách đá, có điều không dốc lắm, chỉ hơi nghiêng nghiêng. Đỉnh núi nhiều mây, đầu kia là Dung Bảng của người Miêu nằm trong mây, giống như một bức tranh sơn thủy xinh đẹp, đưa tay là có thể chạm đến.
Đang nhìn xuýt xoa thì phía sau có người gọi ông: “Sư phụ, Thẩm tiểu thư có việc bàn bạc với thầy.”
Quan chủ Thương Hồng quay người, đập vào mắt là một cửa hang có dây mây rủ xuống che phủ thấp thoáng, Vương Càn Khôn đang ló đầu ra không ngừng vẫy tay với ông.
Quan chủ Thương Hồng đáp lời đi qua, vịn cánh tay Vương Càn Khôn run rẩy bước xuống. Cửa hang này là lối vào một sườn dốc, mỗi lần ra vào đều dễ bị trượt chân. Vất vả lắm mới đứng vững, quan chủ Thương Hồng cảm khái: “Cũng may mà Thẩm tiểu thư có thể tìm ra chỗ thế này.”
Vương Càn Khôn đồng ý: “Phải là chỗ thế này mới lừa được Tư Đằng.”
Nơi này cách Dung Bảng một khe núi, theo lời Thẩm Ngân Đăng kể lúc nhỏ cô ta từng cùng bạn trong bản đến ngọn núi này chơi, trời xui đất khiến bị lạc đường nên phát hiện ra nó.
Hang núi rất sâu, bên trong lạnh hơn bên ngoài, vách đá ẩm ướt phủ đầy rêu xanh. Vừa bước vào đã ngửi thấy mùi lạ, mở đèn pin nhìn cho kỹ thì thấy có vật hôi thối giống như phân, nước tiểu động vật và xương của bò heo. Cửa vào hẹp nhưng bên trong lại rất rộng rãi, chia ra vài ngả hang động, những ngả động này tụ họp lại thành một cái hang lớn ở cuối cùng, cao chừng bốn năm mét, trên đỉnh đầy thạch nhũ, bên dưới lỉa chỉa đá măng. Nhũ đá và măng đá vẫn còn đang tiếp tục sinh trưởng, chắc qua tám trăm hay một nghìn năm nữa sẽ có thể nối liền thành cột đá.
Ngoại trừ người của đạo môn, bên trong cũng có vài người đàn ông mặc trang phục của dân tộc Miêu. Họ đeo thắt lưng to, bận bịu đục đẽo. Thẩm Ngân Đăng hơi nôn nóng, đang khẽ nói gì đó với tên thủ lĩnh thì thoáng thấy quan chủ Thương Hồng đi vào. Cô ta vội ra đón: “Có phải Tư Đằng đã đến rồi không? Lão quan chủ phải nghĩ ra cách kéo dài thời gian vài ngày… Để chắc chắn không lộ ra sơ hở, chỗ này của tôi phải chuẩn bị kỹ lưỡng một chút.”
“Chuyện này không khó, Tư Đằng rất đa nghi, nếu cô nói với cô ta nhanh như vậy đã tìm được sào huyệt Xích Tán ngược lại sẽ khiến cô ta nghi ngờ.”
Thẩm Ngân Đăng thở phào một hơi: “Hôm nay lão quan chủ phải đến gặp cô ta sao? Vậy các người đi sớm về sớm, để mình tôi ở lại đây là được. Đây đều là công nhân trong bản chúng tôi, tôi sẽ đốc thúc làm nhanh hơn một chút.”
Cũng đúng. Bọn họ thỉnh thoảng nói chuyện bằng tiếng dân tộc, quan chủ Thương Hồng nghe cũng không hiểu. Có điều ông ta vẫn khách sáo vài câu: “Thẩm tiểu thư cũng phải chú ý giữ gìn sức khỏe, bây giờ cô đang có thai, băng đèo vượt núi phải cẩn thận đừng quá mệt nhọc.”
Thẩm Ngân Đăng cười cười, đưa tay xoa bụng, dịu dàng nói: “Đều là vì đứa con này cả, bây giờ khổ nhọc một chút có gì đáng kể. Chỉ sợ sau khi sinh nó ra ngay cả mặt mũi, hai mẹ con cũng không thấy được nhau.”
Nghe nói như thế, một người đàn ông khá trẻ tuổi trong đám công nhân đang bận bịu hơi tò mò nhìn về phía Thẩm Ngân Đăng, muốn nói gì đó nhưng lại nhịn xuống. Cho đến khi đám người quan chủ Thương Hồng rời đi, cậu ta mới hớn hở chạy đến kéo Thẩm Ngân Đăng qua một bên: “Chị A Ngân, chị mang thai sao? Em không nghe anh Ương Ba nhắc đến.”
Thẩm Ngân Đăng giơ ngón tay lên suỵt một tiếng, gương mặt nở nụ cười kín đáo: “Không có, chị lừa bọn họ thôi.”
Sau khi Nhan Phúc Thụy đến bản Miêu mới biết được Thẩm Ngân Đăng đã kết hôn rồi.
Chồng Thẩm Ngân Đăng tên là Ương Ba, là một người đàn ông dân tộc Miêu cao lớn điển trai, làm nghề thợ bạc gia truyền, mở một cửa hàng bán đồ trang sức bằng bạc. Thảo nào lúc mới gặp Thẩm Ngân Đăng trên người cô ta lại đeo nhiều trang sức bạc tinh xảo đến vậy, hóa ra là tự tay Ương Ba làm ra.
Có điều Ương Ba nhìn không giống người buôn bán mà giống nghệ nhân hơn. Lần này đến bản Miêu, đám người quan chủ Thương Hồng mang theo Vương Càn Khôn cùng nhau hành động. Còn Nhan Phúc Thụy vì là người ngoài nên chỉ có thể ở trong sân ngồi nhìn Ương Ba làm trang sức. Có rất nhiều dụng cụ ông không biết tên, hỏi Ương Ba mới biết được nào là mỏ hàn hơi, da cọp, gạch chịu lửa, nhẫn côn, còn có bản kéo sợi dùng để làm dây chuyền. Hóa ra vàng bạc dùng cái này để kéo sợi, vô cùng mới lạ nếu Nhà Ngói mà nhìn thấy nhất định sẽ ầm ỹ đòi lấy ra chơi cho xem…
Nhà Ngói ư? Đúng! Chỉ có thăm dò được tin tức giúp tiểu thư Tư Đằng mới có thể biết được tung tích của Nhà Ngói.
Rốt cuộc đã chính thức trở thành “gián điệp”, tim Nhan Phúc Thụy đập thình thịch. Vẻ mặt lo lắng ông nhìn dáo dác ra cửa bản hỏi Ương Ba: “Tiểu thư Thẩm Ngân Đăng đi đâu vậy?”
“Nói là dẫn các vị đạo trưởng đi đến nơi gần đây.”
“Đi cũng đã lâu lắm rồi, không bị lạc đường chứ.”
Ương Ba cười ha ha, anh ta tỉ mỉ thổi mảnh bạc trên bảng đi: “Có A Ngân ở đó sẽ không lạc đường đâu. Đi lâu như vậy chắc là đi qua núi Hắc Bối rồi.”
Anh ta đứng lên, chỉ cho Nhan Phúc Thụy xem: “Đằng kia, cách một khe núi, rất ít người đến đó. Núi Hắc Bối nhìn trong đêm tối giống như là lưng của con gấu đen vậy. A Ngân biết đường đi, mẹ và bà ngoại cô ấy đều chôn ở đó.”
Nhan Phúc Thụy hỏi anh ta: “Tại sao rất ít người đến đó?”
“Bởi vì…” – Có lẽ do trước giờ không có ai hỏi vấn đề này nên Ương Ba phải suy nghĩ hồi lâu – “Khi tôi còn bé, ông tôi nói với tôi trên núi có yêu quái ăn thịt người, miệng nó giống như một cái chậu lớn, đầy răng nhọn lởm chởm, giống như thang dao (1) của người dân tộc Di… Sau đó tôi nghĩ hẳn là hù dọa trẻ con thôi. Chắc trên núi có dã thú, mấy người lớn sợ trẻ con chạy lung tung xảy ra chuyện. Có điều lưu truyền qua nhiều đời đến nay, người trong bản cũng không có thói quen đến núi Hắc Bối nữa. A Ngân là người Hán, cô ấy không kiêng kỵ chuyện này.”
(1) Hình ảnh minh họa: http://img1.gtimg.com/hn/pics/hv1/5/234/1580/102799175.jpg
“Vậy tại sao dẫn các đạo trưởng đi, phong cảnh nơi đó đẹp lắm sao?”
Điều này bảo anh ta trả lời thế nào đây? Ương Ba ngẫm nghĩ, cười đùa: “Có lẽ là trên núi có yêu quái, không phải là đạo sĩ phải bắt yêu sao? Có thể A Ngân dẫn bọn họ đi tìm yêu quái thôi.”
Không dễ gì Nhan Phúc Thụy mới dò la được một tin tức “đáng giá ngàn vàng” như thế. Nếu như anh ta không nói, mình sẽ không biết đám người quan chủ Thương Hồng đến núi Hắc Bối.
Sau khi Tần Phóng hỏi ông chủ khách sạn, chỉ phương hướng núi Hắc Bối cho Tư Đằng xem, Tư Đằng nói: “Rừng rậm, núi sâu, ít có người đến lại có truyền thuyết yêu quái ăn thịt người. Quả thật rất giống sào huyệt của Xích Tán.”
Vẫn là câu nói kia, một khi chuyện hoàn mỹ đến mức không có sơ hở thì dễ dàng khiến người ta nảy sinh nghi ngờ. Tần Phóng nhìn Tư Đằng: “Cô có cảm giác chuyện này thuận lợi quá mức hay không? Cô muốn tìm một yêu quái giống như cô, bọn họ liền tìm ra được Xích Tán. Cô muốn có bằng chứng, bọn họ liền cung cấp chứng cớ. Cô muốn tin tức cặn kẽ hơn, bọn họ liền tìm sào huyệt Xích Tán. Tôi đoán tiếp theo bọn họ sẽ gọi điện thoại đến, nói cho cô biết đã tìm được sào huyệt Xích Tán rồi…”
Lời còn chưa nói hết, điện thoại trong túi Tần Phóng đã vang lên. Anh nhìn Tư Đằng cười: “Hiếm khi tôi đoán đúng như vậy, nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến ngay.”
Tư Đằng lắc đầu: “Chưa chắc đâu, tuy Thương Hồng muốn gọi cú điện thoại này nhưng sẽ không gọi nhanh như vậy.”
Tần Phóng lấy điện thoại ra. Quả nhiên Tư Đằng đoán đúng, là Đơn Chí Cương gọi. Anh chột dạ liếc nhìn Tư Đằng, Tư Đằng rất có phong thái kẻ thắng cuộc, sau khi thương hại nhìn anh một cái rồi ung dung quay người trở về phòng.
Mới vừa đi hai bước, phía sau vang lên tiếng đồ đạc rơi xuống đất. Tư Đằng quay đầu lại theo phản xạ, điện thoại của Tần Phóng đã rớt trên mặt đất.
Nhìn lại Tần Phóng, chỉ mới đó thôi nhưng sắc mặt anh đã trắng bệch đáng sợ, đôi môi khẽ mấp máy, tay vẫn còn đưa lên trong tư thế cầm điện thoại.
Đây là sao? Tư Đằng nghi ngờ nhìn anh một hồi, thấy anh hoàn toàn không có ý cử động, cô dứt khoát cúi xuống nhặt điện thoại lên. Đầu bên kia điện thoại vẫn chưa cúp máy. Lúc kề tai vào, cô nghe thấy tiếng Đơn Chí Cương nói năng không rõ ràng mang theo tiếng khóc.
“Tần Phóng, Tần Phóng, sao cậu không nói lời nào vậy? Cậu mau trở lại đi, An Mạn sắp chết rồi, cô ta sắp chết rồi…”