Hơn nữa, Khương phủ có việc, bọn họ có thể giúp thì cũng muốn giúp một tay.
Lúc Hứa Song Uyển đi thì gặp phải mấy phụ nhân trong Khương tộc đến giúp đỡ. Đối phương vội vã hành lễ, rồi mỉm cười tạm biệt.
Sau khi nàng đi, một phụ nhân trung niên đến từ Khương thị nhất tộc liền cười nói với Khương Đại phu nhân: “Mấy lần trước tới không khéo, chưa nhìn thấy vị trưởng Thiếu phu nhân Hầu phủ kia, cuối cùng hôm nay cũng gặp được.”
Công công tỉnh lại, Khương Đại phu nhân cũng khôi phục tính tình bất động như núi trước kia. Lúc này, bà kín đáo cười nói: “Sao lại muốn gặp như thế?”
“Còn không phải là nghiệp chướng trong nhà làm loạn, nói là nhà vị tiểu công tử Tuyên phủ kia có một tẩu tử xinh đẹp như thiên tiên, dịu dàng như nước, cũng bảo ca ca hắn tìm theo dạng ấy, không ra thể thống thì không cho vào cửa. Trước kia huynh trưởng nó vừa ý một người, nó vừa nhìn thấy thì chê người ta xấu xí, chẳng dịu dàng, bĩu môi ngay tại chỗ, bị người nhà kia nhìn thấy nên tức giận dắt nữ nhi rời đi…” Phu nhân kia cười than thở: “Nghiệp chướng này, quay đầu thì bị ca ca nó đánh cho một trận, lép luôn cái mông.”
“Là Tiểu Đào đứng hàng thứ sáu trong nhà các ngài à?” Khương Đại phu nhân hỏi.
Phụ nhân gật đầu.
“Cũng không phải mình Tiểu Đào. Lần trước tới đây, nó còn chạy việc vặt cho tiểu Ngũ thúc, một ngày chạy trên dưới ba, bốn, năm mươi, sáu mươi dặm, chạy theo đuôi tiểu Ngũ thúc không rời, không ngại mệt không than khổ. Lúc trở về mồ hôi ướt đẫm lưng còn cười hì hì nói không sao, ta nhìn thấy đau lòng. Có điều, nó đứng ở đại phòng nói là đây mới là nam nhi Khương gia sau này làm việc, há chỉ một chút bận rộn mệt mỏi có thể suy sụp.”
Phụ nhân kia nghe được thì cười đến không khép miệng lại được. Làm mẫu thân, nghe cái gì cũng không bằng nghe người khác nói nhi tử nhà mình có tiền đồ. Bà chen chúc một đống người đến Khương gia, cũng là bởi vì Khương gia thật sự là thân thích tốt. Chỉ cần có thể chịu đựng, muốn học theo bọn họ, bọn họ sẽ dạy. Bọn họ đối xử với người trong tộc hào phóng như người thân ruột thịt, ai cũng muốn có một nhà thân thích như vậy.
“Cũng là các ngài nhẫn nại. Tiểu Lục vừa trở về thì đã nói nhà các ngài chỗ nào cũng tốt, còn nói ngài với Nhị tẩu tử mỗi khi thấy nó là luôn tươi cười, sợ nó mệt nó đau chỗ nào chứ không giống ta, vừa nhìn thấy nó thì mặt mày lạnh lùng, còn nói nó không phải con ruột của ta, là ta nhặt được…”
“Đứa nhỏ này đúng là nghịch thật.” Khương Đại phu nhân cũng nở nụ cười, cười nói với bà: “Ngài cũng đừng tức giận, nó thông minh, trong lòng biết ai mới là người đối xử tốt nhất với nó, thân nhất với nó. Lão thái gia nhà ta nói đứa nhỏ này đầu óc hoạt bát, tính tình hướng ngoại, về sau giống như Tiểu Ngũ, chính là người có thể gánh vác đại sự bên ngoài.”
“Mượn lời cát ngôn của ngài, chỉ mong như thế.” Tuy phụ nhân này cảm khái như thế, nhưng mặt mày hớn hở hẳn lên. Bà thấy mấy phu nhân trong Khương gia tộc muốn đến giúp đỡ mà vừa buồn cười vừa bất đắc dĩ.
Danh tiếng đều đã để bà đoạt rồi, không còn việc của các nàng ấy.
“Ta còn nghe người trong nhà nhắc tới, trong tộc muốn xây dựng lớp học một lần nữa, phủ Quy Đức Hầu cũng giúp một tay?” Phụ nhân lại mở miệng.
“Đúng vậy, giúp một nửa.” Tấm lòng của cháu ngoại trai và cháu dâu đều lọt vào mắt Khương Đại phu nhân nên bà cũng nói tốt về bọn họ, mang theo tấm lòng thành: “Hầu phủ nhìn phong quang, nhưng từ trên xuống dưới đều bị nhìn chằm chằm, lại phải lấy thân làm gương, ngoại trừ chút gia sản nhà mình thì không có thu nhập khác, tính ra không thoải mái. Nhưng Tuân Lâm học ở lớp trong tộc chúng ta, bọn họ thấy tộc chúng ta tốt, cho dù khó khăn cũng bỏ ra chút bạc tận tâm này. Cháu dâu ta cũng nói với chúng ta, không có nhiều tiền nhưng cũng có thái độ. Nàng nói Hầu phủ vẫn biết người trong tộc chúng quan tâm và dụng tâm với Tuân Lâm, nếu không nói thì chúng ta cũng chẳng biết trong lòng bọn họ nhớ kỹ như vậy. Hầu phủ bày tỏ lập trường với chúng ta.”
Làm người không để bụng, ngươi đối xử với người khác khoan dung là bản tính của ngươi như vậy; nhưng người khác có thể biết ngươi tốt, nhớ kỹ thì trong lòng ngươi vẫn thoải mái.
Phụ nhân này, cùng mấy nữ quyến Khương gia đến Khương gia nghe được những lời này của Khương Đại phu nhân thì có hảo cảm hơn với Thiếu phu nhân của Hầu phủ.
Sau khi các nàng trở về, các nàng giáo dục con cháu dưới gối, cũng dặn dò con cháu khác là đối xử tốt hơn Tuyên tiểu công tử học nhờ ở lớp học đọc sách của bọn họ. Những lời các nàng nói cũng không phải chỉ là nói suông, những phu nhân này nói bọn họ dẫn Tuân Lâm về nhà, đưa Tuân Lâm đi theo ra ngoài chơi, mang theo Tuân Lâm đến nhà mẹ đẻ các nàng, nhà huynh đệ các nàng, đối xử với hắn như con ruột, dùng tấm lòng khoan dung nhất tiếp đãi với hắn tử tế nhất.
Các phu nhân làm những việc này là bởi vì cảm thấy phủ Quy Đức Hầu là một nhà biết ơn hồi báo, biết chủ tử phu nhân nhà bọn họ là người trong sạch hiểu biết.
Chỉ là suynghĩ rộng lượng của một số phụ nhân Khương gia, nhưng quả thật điều này đã mở rộng tầm nhìn của Tuân Lâm hồi bé. Những trải nghiệm trưởng thành quý giá này cuối cùng sẽ góp phần vào thành tựu vĩ đại của công thần lớn nhất nâng đỡ Đại Vi vào thời kỳ thịnh thế.
Mà lúc này, Hứa Song Uyển vốn không biết chuyện của hai ba mươi năm sau khi mình chết. Sau khi nàng rời khỏi Khương phủ, gặp rất nhiều người xa lạ, người chưa từng gặp mà cũng mang theo thiện chí thỉnh an nàng, thấy nàng là khoé miệng mỉm cười.
Nàng rất thích đến Khương phủ.
Người nhà như Khương phủ cho người khác dịu dàng và năng lực, là thứ nàng thiếu sót nhất hồi còn ở Hứa gia. Mỗi lần nàng đến Khương gia đều học được cảm thông thấu hiểu hơn. Chỉ là, nàng là Thiếu phu nhân của phủ Quy Đức Hầu, chốn về của nàng là phủ Quy Đức Hầu, lúc không có việc thì nàng không thể lui tới quá nhiều với Khương phủ.
Nhưng cũng là vì có Khương gia, có mấy người nàng biết, ví dụ như Cung gia nên Hứa Song Uyển thì càng yên tâm hơn khi ở phủ Quy Đức Hầu.
Nàng từng nghĩ, một ngày nào đó mình cũng có thể trở thành nơi vỗ về lòng người, trở thành ánh sáng, trở thành sức mạnh. Thậm chí, trở thành tấm gương mà người đang mờ mịt vào con đường tương lai có thể nhìn thấy, trở thành chỗ dựa của bọn họ, trở thành người mà bọn họ muốn phấn đấu trở thành. Chỉ cần để cho bọn họ có thể sống tốt hơn một chút thì đây đã là thành tựu lớn nhất trong cuộc đời nàng.
Cho dù cả đời nàng lặng lẽ vô danh cũng chẳng sao.
Nàng trước kia và hiện tại, với cả tương lai đều là hấp thụ những sức mạnh vô danh này mà tiến lên. Nàng như thế, nàng cũng hy vọng hậu nhân cũng có thể cảm giác được sức mạnh mà nàng thay người xưa truyền xuống.
**
Đêm nay, Tuyên Trọng An không trở về Hầu phủ.
Hứa Song Uyển ôm Vọng Khang lên giường ngủ cùng hắn. Trước khi ngủ, nàng vuốt bàn tay nhỏ của con rồi hỏi: “Tối qua phụ thân dạy, con còn nhớ không?”
Chỉ cần trượng phu trở về, dẫu hắn quá mệt mỏi nhưng Hứa Song Uyển đều bảo hắn dạy hài nhi một câu thơ. Cho dù không thành thơ thì một chữ quan trọng cũng được.
Vọng Khang luôn cáo trạng phụ thân, nhưng nếu như trong hai ngày chưa nhìn thấy phụ thân thì cậu sẽ khóc làm loạn đòi phụ thân, hỏi nàng vì sao phụ thân chưa về…
Tính trời sinh của một đứa trẻ là phụ thân và mẫu thân chẳng thể thiếu bất kỳ ai.
Nhưng trưởng công tử không thể ngày nào cũng trở về. Hắn là trọng thần của triều đình, là người quan trọng nhất trong giang sơn xã tắc. Hắn có thể trở về hơn hai mươi ngày trong một tháng, lúc không có việc thì nửa đêm cũng phải về, Hứa Song Uyển đã biết đây là kết quả mà hắn đã nỗ lực hết mình.
Nàng chưa bao giờ oán giận trượng phu không hướng về gia đình. Nhiều lắm cũng chỉ khi sức khoẻ hắn không chịu nổi thì nàng mới viết ít thơ tình quyến rũ hắn về nhà. Nàng dụ dỗ hắn về nhà để hắn nghỉ ngơi một lúc, hắn không trở về thì nàng cũng không càm ràm. Nàng cũng chưa từng oán giận với trẻ con là vì sao phụ thân không về, cũng không giải thích quá nhiều ở độ tuổi của con mà mỗi ngày chỉ nói với con rằng phụ thân luôn quan tâm và yêu thương con.
Vọng Khang của nàng được nàng tỉ mỉ chở che, nhưng cũng sẽ được phụ thân con nuôi dưỡng và dạy dỗ chuyên tâm nên người.
Lúc trước, Hứa Song Uyển cảm thấy mình là một người quá coi trọng nặng nhẹ nhưng không nặng tình người. Trước kia, nhận thức của nàng về phụ mẫu chính là lạnh lùng vô tình. Hồi nàng mười bốn, mười lăm tuổi; cũng nhân lúc nghe lén phụ thân và tỷ tỷ nói nàng lạnh lùng vô tình mà từng hoang mang sợ hãi. Hiện giờ, nàng không như thế nữa. Thậm chí, nàng từng nghĩ rằng dù cho ngày nào đó trưởng công tử không còn yêu nàng sâu đậm, không xem nàng như chỗ dựa, không dành cho nàng tình yêu nồng cháy nhất và sự dịu dàng thì nàng cũng sẽ không để Vọng Khang xa phụ thân của con. Chỉ cần phụ thân con có thể dạy con nhiều hơn, dành cho con sự nuôi dạy tốt nhất thì nàng cũng sẽ không dung túng cảm xúc một chiều của mình mà để Vọng Khang rời xa phụ thân tốt nhất dẫn dắt con nên người.
Nếu nàng chết đi thì nàng cũng sẽ không để thứ tồi tệ nhất của bản thân làm ảnh hưởng hài nhi của nàng. Dẫu cho là Vọng Khang hay là hài nhi trong bụng nàng chưa biết là nam hay nữ.
Hứa Song Uyển sống đến lúc này mới hiểu được rằng khi làm mẫu thân, hoá ra lại có sự kiên cường và quả quyết như vậy.
Nàng cũng mới hiểu, xưa nay bản thân không phân rõ tình cảm; mà là trong lòng nàng, yêu thích và trân trọng đều cắm rễ rất sâu.
Vọng Khang hài lòng gật đầu rồi nói: “Con nhớ rồi!”
Cậu đọc cho mẫu thân bài thơ mà khi phụ thân về muộn đánh thức cậu, bắt cậu đọc một bài thơ.
Vọng Khang còn chưa tròn hai tuổi. Cậu nói rõ ràng, phản ứng nhạy bén đều là phụ thân cậu tạo nên.
Không học xong thì sẽ bị phụ thân cắn mông, rất đáng sợ.
Vọng Khang đọc xong, Hứa Song Uyển cười nói: “Vậy hôm nay phụ thân không trở về, con có thể ngủ với nương một giấc thật ngon rồi.”
Vọng Khang cười to, vỗ lên bàn tay nhỏ bé lên: “Không về!”
Vậy tốt rồi, phụ thân xấu, không về nhà!
Nhưng đến nửa đêm, cậu vẫn bị phụ thân làm ồn tỉnh lại, bị phụ thân lạnh lùng trợn mắt: “Hôm nay mẫu thân con không dạy thơ cho con đúng không?”
Vọng Khang xoay mông, bĩu môi không nói lời nào.
Cơn ác mộng đã trở về.
“Đứng lên, học.” Tuyên Trọng An ngáp một cái, kéo nhi tử ngồi lên bụng: “Phụ thân một câu, con một câu.”
Đợi Vọng Khang ngủ thiếp đi, Tuyên Trọng An nhìn con nằm ngủ bên cạnh bọn họ rồi tủi thân thủ thỉ với Uyển Cơ chiều chuộng hài nhi: “Không thể để cho con ngủ trên giường nhỏ của con à?”
“Buổi sáng con dậy sớm, chàng vừa tỉnh thì con sẽ tỉnh, không thấy chàng thì sẽ tìm chàng.”
Tuyên Trọng An chẳng làm gì được. Hắn húp canh trong tay nàng, súc miệng xong rồi trông mong chờ nàng lên giường. Lúc này, hắn mới ôm nàng lăn đến góc giường, nói: “Vẫn chưa hỏi được chỗ mỏ vàng.”
“Sớm muộn cũng sẽ hỏi ra.”
“Hiện giờ ta muốn để dân chúng xẻo thịt Đào Tĩnh.”
“Không thể.”
“Uyển Uyển.” Tuyên trưởng công tử tức giận.
“Dân chúng phát tiết chỉ là nhất thời.” Hứa Song Uyển ôm eo hắn rồi nhắm mắt lại, nói tiếp trong cơn buồn ngủ: “Bởi vì bên ta đuổi tận giết tuyệt nên Đào đảng mới phản công, không đầu không hàng, mới là kết quả.”
Triều đình bọn họ tàn bạo đối với Đào Tĩnh, truy đuổi đến chết, cuối cùng bị thương nặng không phải thánh thượng ngồi ở vị trí cao hay phủ Quy Đức Hầu bọn họ, mà là dân chúng vẫn chưa nhận được sự công bằng.
Triều đình này cũng không phải chỉ có hai màu đen trắng, trong mắt dân chúng chỉ có đen trắng thì nào biết được? Mà có thể trách tội bọn họ vì điều này ư? Triều đình và thiên hạ để cho bọn họ biết, để cho bọn họ hiểu, để cho bọn họ tiếp thu, chỉ có hai màu đen trắng này, bọn họ không hiểu, có thể trách tội bọn họ chăng?
Không thể.
Như vậy thì là gieo gió gặt bão, mình làm, tự chịu.
Bọn họ chính là muốn cho Đào Tĩnh ngàn vạn người miếng thịt, cũng chỉ có thể để cho hắn lặng yên không một tiếng động chết đi, sau đó, trấn an Đào Đảng, lại để cho hết thảy trở về Thái Bình, để cho lợi ích bất đắc dĩ cùng đương triều làm ra thỏa hiệp có lợi nhất, để cho thiên hạ thực hiện tân chánh, mới là hiện thực tàn lãnh nhất, cũng là hiện thực nhất.
Dù cho bọn họ muốn xẻo ngàn vạn miếng thịt trên người Đào Tĩnh thì cũng chỉ có thể để cho lão chết trong yên lặng; sau đó động viên Đào đảng, lại để tất cả trở về bình yên thì mới là sự thoả hiệp có lợi nhất cho tất cả các bên cực chẳng đã và đương triều. Để khắp thiên hạ thực hiện chính sách mới thì mới là thực tế lạnh lẽo và hiện thực nhất.